Câu chuyện tình yêu: Từ tình thầy trò đến bạn đời trăm năm

19/06/2025 - 06:00

PNO - “Anh nói thiệt, anh rất thương Thanh, ý Thanh sao?” - câu tỏ tình bất ngờ giữa dòng kênh xanh đã khởi đầu cho một chuyện tình đẹp giữa cô học trò Trần Thị Ngọc Thanh (SN 1940) và thầy giáo Nguyễn Khúc Hạo (SN 1933) trong những năm tháng thanh xuân tràn đầy lý tưởng cách mạng.

Tình đầu của cô học trò côi cút

Tuổi thơ của bà Thanh không êm đềm. Cha mẹ không còn, cô bé Thanh phải sống nương nhờ người thân. Từ Bến Tre, Thanh lên Sài Gòn rồi về huyện Vị Thanh (tỉnh Hậu Giang). Nơi đây, Thanh được đi học và gặp người thầy giáo đặc biệt - ông Nguyễn Khúc Hạo - người mà cô trìu mến gọi là anh Ba.

“Thấy tụi tui phải lội sông đi học, ngày nào anh Ba cũng bơi xuồng đưa tụi tôi qua sông” - bà Thanh nhớ lại những ngày đầu gặp gỡ. Sự quan tâm ân cần của thầy giáo trẻ đã gieo vào lòng cô trò nhỏ sự kính trọng và cảm mến đặc biệt.

Vợ chồng ông Hạo, bà Thanh sau ngày đất nước thống nhất - Ảnh do nhân vật cung cấp
Vợ chồng ông Hạo, bà Thanh sau ngày đất nước thống nhất - Ảnh do nhân vật cung cấp

Chiến tranh lan rộng, trường học giải tán, thầy trò mỗi người một ngả. Năm 1953, bà Thanh về Cà Mau, bất ngờ gặp lại người xưa. Những buổi đến trường, thầy Hạo vẫn cho cô học trò nhỏ đi nhờ xuồng. Một lần, giữa dòng kênh, ông Hạo đột nhiên chống xuồng chậm lại, nói: “Thanh, anh rất thương Thanh”. Lúc đó, bà Thanh mắc cỡ quay mặt đi. “Từ đó, tôi không thèm nói chuyện với anh Ba nữa. Giận anh, tôi nghỉ học luôn” - bà kể.

Cuộc hội ngộ định mệnh

Năm 1954, bà Thanh cùng em trai tập kết ra Bắc mà không biết thầy giáo Hạo cũng ra Bắc và đang đi tìm cô trò nhỏ.

Một ngày, khi bà Thanh đang học ở Hải Phòng thì có khách tới thăm. Người đứng trước mặt bà là thầy giáo Hạo. Cả hai sững người nhìn nhau trong sự xúc động. Sau lần gặp này, họ lại bặt tin nhau. Mãi đến năm 1964, trước khi đi B (vào chiến trường miền Nam), ông Hạo đi tìm người trong mộng, họ mới gặp lại nhau.

Ông đưa bà đi dạo ở Hồ Tây và đãi bà món bánh tôm Hồ Tây. Sau đó, ông dẫn bà đi mua vải để may đồ. Trước khi ra về, ông ngỏ lời “Anh vẫn thương Thanh, ý Thanh sao?”. Bà trả lời “Em đồng ý”. Để minh chứng cho tình yêu, bà đưa ông đến tiệm nữ trang, tháo đôi bông tai mẹ cho, nhờ làm thành 2 chiếc nhẫn trao nhau làm kỷ vật. “Đó là lời hẹn ước thiêng liêng trước khi anh Ba đi B” - bà Thanh xúc động nói và chìa tay cho phóng viên xem chiếc nhẫn kỷ niệm vẫn được bà trân trọng đeo.

Rồi bà lấy ra quyển sổ đã ngả màu, mân mê lật từng trang giấy ố vàng. Bà dừng lại ở trang nhật ký ghi ngày 5/11/1964 đọc những dòng ông viết cho bà: “Em yêu của anh. Chỉ còn 3 tiếng đồng hồ nữa thôi anh sẽ tạm biệt đất Thăng Long… Sẽ đợi em về ở ngày Tổ quốc vinh quang. Càng nhớ càng thương phải càng kiên tâm phấn đấu. Gửi lại em cả một tấm lòng mến yêu vô tận. Gửi vào đây tất cả niềm tin lạc quan và tất thắng. Siết chặt tay Ngọc Thanh. Hôn em nhiều và yêu em mãi mãi. Anh là của riêng em. Nguyễn Khúc Hạo”.

Bạc đầu nghĩa phu thê

Ở tuổi 85, bà Thanh vẫn rất nhanh nhẹn và minh mẫn. Bà nhớ từng chi tiết về thời tuổi trẻ rực lửa, đầy khát vọng, về mối tình thanh xuân khắc cốt ghi tâm.

Năm 1965, bà tốt nghiệp đại học và tình nguyện đi B nhưng đến năm 1968 mới được chọn. Lúc khám sức khỏe, nhìn cô gái mảnh dẻ, tái mét, chưa đầy 40kg, bác sĩ buột miệng: “Cô muốn vào Nam à? Có phải người yêu trong đó không?”. Nghe vậy, bạn bè trêu bà: “Thanh đi với 2 động cơ, “động cơ đốt trong” mạnh hơn”.

Giờ đây, khi ông Hạo đã rời xa, bà Thanh vẫn thường đọc lại những trang nhật ký tình yêu  thời thanh xuân của 2 người - ẢNH: THÙY DƯƠNG
Giờ đây, khi ông Hạo đã rời xa, bà Thanh vẫn thường đọc lại những trang nhật ký tình yêu thời thanh xuân của 2 người - Ảnh: Thùy Dương

Trước khi đi, bà viết thư cho người yêu, hẹn ông ở điểm đến tại tỉnh Tây Ninh. Thế nhưng, rừng thiêng nước độc, đồng đội của bà đều bị sốt rét, bà cũng ngã bệnh phải vào bệnh viện cấp cứu. Bà kể: “Khi tỉnh lại tôi mới biết bệnh viện có 5 người bị sốt rét ác tính hôn mê thì hết 4 người tử vong. Vì vậy, lúc anh Hạo đón tôi ở điểm hẹn thì được báo “Thanh bị sốt rét ác tính chết rồi”.

Nhận tin sét đánh, ông vô cùng đau khổ nhưng vẫn tin bà còn sống. Vì vậy, trong 1 năm bà điều trị bệnh, dù không có tin tức của nhau, họ đều giữ lòng son sắt thủy chung.

Đến năm 1971, 2 người gặp lại nhau, mừng rơi nước mắt. Sợ lạc mất nhau lần nữa, họ xin phép đơn vị cho cưới. Đám cưới đơn sơ, ấm áp được tổ chức giữa rừng ở Campuchia là ký ức đẹp nhất của ông bà.

Tuy nhiên, cưới mới 3 ngày, ông phải trở về đơn vị còn bà cũng nhận nhiệm vụ làm giao liên nội thành. Vậy là họ lại xa nhau.

Sau ngày miền Nam giải phóng, ông bà mới được về chung một nhà. Họ cùng nhau đi tiếp những năm tháng khó khăn sau chiến tranh, cùng nuôi dạy các con nên người. Đến nay, dù ông đã ra đi nhưng câu chuyện về tình yêu son sắt vẫn in sâu trong lòng bà, là nguồn cảm hứng cho con cháu tin vào tình yêu và lý tưởng trong cuộc sống.

Thùy Dương

Ý KIẾN BẠN ĐỌC(1)
 

news_is_not_ads=
TIN MỚI