 |
Khách tham quan bảo tàng ấn tượng với những kỷ vật kháng chiến được trưng bày - Ảnh do nhân vật cung cấp |
Giữa rất nhiều kỷ vật ở Bảo tàng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, những trang nhật ký của ông Phước, bà Ngọc khiến người xem rưng rưng nước mắt.
Hôm trao tặng cuốn nhật ký, ông Nguyễn Hữu Phước xúc động nói: “Đây là kỷ vật vô giá mà gia đình tôi đã dày công lưu giữ hơn nửa thế kỷ. Nay tuổi đã cao, chúng tôi trao tặng cho bảo tàng với mong muốn góp phần làm phong phú thêm những kỷ vật kháng chiến bảo tàng đang lưu giữ, trưng bày; qua đó giáo dục truyền thống yêu nước, lý tưởng sống cao đẹp, bồi đắp lòng tự hào dân tộc cho các thế hệ sau để cùng nhau tiếp bước các thế hệ cha anh đi trước”.
 |
Trang đầu của nhật ký |
Ươm mầm tình yêu Tổ quốc từ trang viết
Ngay từ thời sinh viên, ông Nguyễn Hữu Phước đã gia nhập tổ chức Đoàn Thanh niên Nhân dân Cách mạng khu Sài Gòn - Gia Định. Bên cạnh ông, bà Hoàng Lê Tuyết Ngọc cũng là một cán bộ đoàn năng nổ, nhiệt huyết trong phong trào cách mạng. Tình yêu của họ nảy nở và bền chặt trong suốt 8 năm. Năm 1970, giữa lúc chiến tranh vẫn ác liệt, một đám cưới giản dị nhưng ấm áp đã diễn ra. 1 năm sau, niềm hạnh phúc vỡ òa khi cô con gái đầu lòng chào đời, được đặt tên Nguyễn Phước Ngọc Tâm.
Trong thời gian vợ mang thai, ông Nguyễn Hữu Phước có ý định viết nhật ký cho con. Ý tưởng viết nhật ký xuất phát từ nỗi lo lắng thường trực của những người hoạt động cách mạng. Trong cuộc chiến khốc liệt này, sự hy sinh có thể đến bất cứ lúc nào. Nếu cả cha và mẹ đều ngã xuống, ai sẽ là người nuôi dạy con nên người, ai sẽ truyền lại cho con tinh thần yêu nước, ý chí quật cường của dân tộc? Họ hy vọng khi lớn lên, đọc những dòng nhật ký này, con sẽ hiểu được tình yêu thương, những ước mơ, khát vọng cha mẹ đã ấp ủ.
Đó là một cuốn nhật ký viết tay, dày 159 trang, có thời gian trải dài từ năm 1971-1975. Gần một tháng trước khi con gái chào đời, bà Tuyết Ngọc đã thủ thỉ với con qua trang nhật ký: “Mẹ đã may xong tã, áo, xây (yếm) cho con rồi. Mỗi chiếc áo, mỗi cái xây đều có thêu. Cha con vẽ hình cho mẹ thêu với hình vẽ là những người lính của vua Quang Trung đang đánh trống trận trước khi tiến quân ra Thăng Long đánh đuổi quân thù. Đây là một hoạt cảnh của Đoàn văn nghệ Sinh viên Học sinh Sài Gòn dàn dựng trong đêm văn nghệ dịp tết Mậu Thân 1968. Cha vẽ hình này với ý nghĩa muốn con tiếp nối truyền thống anh hùng của dân tộc”.
Ông Nguyễn Hữu Phước nhiều lần bày tỏ niềm mong ước sâu sắc của mình: “Niềm mong ước đậm đà nhất của cha là mai sau con phải nên người cao quý, có tài, có đức và sống một cuộc đời đầy ý nghĩa. Đối với nhân dân, con là người phục vụ hữu ích; đối với Tổ quốc, con là người yêu nước chân thành và đối với kẻ thù xâm lược, con phải chiến đấu bất khuất, ngoan cường”.
“Cha không mong con làm nên nhà cao cửa rộng, xe đẹp, tiền nhiều để cha mẹ được nhờ, trong lúc nước non còn nô lệ, giang sơn còn bị bán buôn và nhân dân cả nước đang chiến đấu vô cùng gian khổ. Con hãy lớn lên rồi nối tiếp sự nghiệp của mẹ cha đang còn bỏ dở, góp phần giành lại độc lập, thống nhất, xây dựng nước Việt Nam giàu mạnh. Trong hạnh phúc chung đó sẽ có hạnh phúc riêng của cha mẹ và của con yêu quý” (trích nhật ký viết ngày 1/1/1971).
Ngày 9/7/1971, khoảnh khắc thiêng liêng khi con gái chào đời được ông bà trân trọng ghi lại bằng bút dạ màu xanh, nắn nót từng chữ về ngày, giờ, nơi sinh. Từ đây, mỗi bước chân, tiếng nói, nụ cười, giọt nước mắt, nét vẽ, câu hát… của con đều được cha mẹ dõi theo, ghi lại tỉ mỉ.
Sống giữa thời chiến, vừa nuôi con, vừa kiếm sống, vừa hoạt động cách mạng, đôi vợ chồng trẻ đối mặt nhiều nỗi lo. Những tâm tư đó được họ tỏ bày trong nhật ký:
“Cha lo âu vì không thể làm giàu một cách phi nghĩa, cha mẹ không thể sống chỉ để kiếm tiền, cha mẹ còn có một lý tưởng trong tim. Như vậy, cha mẹ sẽ không lo cho con đầy đủ vật chất như con nhà giàu và biết đâu cha mẹ phải hy sinh thì cuộc đời con sẽ phải thiếu thốn nữa là đằng khác. Nếu cha mẹ không gặp rủi ro gì trên đường tranh đấu, cha mẹ sẽ tăng gia sức lao động để kiếm tiền nuôi con ăn học thành tài và đồng thời “nuôi con khôn để mai này giữ nước”. Nếu cha mẹ gặp rủi ro thì con phải tự lực phấn đấu, ráng vừa làm kiếm tiền, vừa học, vừa giúp nước…” (trích nhật ký viết ngày 30/9/1971).
Ông Phước còn căn dặn con: “Cha không thể viết nhiều ở đây nhưng cha tin tưởng chắc chắn rằng con sẽ không bao giờ đi ngược lại dòng máu của tiền nhân và cha ông để lại. Trong cơn túng thiếu, cha mẹ nhận rất ít sự giúp đỡ của người khác mặc dù vô số người muốn giúp, chỉ nhận khi nào quá cần thiết mà thôi. Mẹ đi dạy, về nhà vẫn lụi cụi làm bánh bán đến rã rời tay chân, cha là kỹ sư mà vẫn không ngại ngần đem bánh đi bán trong lúc đi dạy kèm. Lớn lên, con phải noi gương này của cha mẹ. Đã hy sinh cho đất nước là phải hy sinh hết mình, đừng bao giờ lạm dụng chữ hy sinh đó để đòi hỏi người khác phải phục vụ mình…” (trích nhật ký viết dịp xuân Giáp Dần 1974).
Dù gian khổ vẫn vững niềm tin
Năm 1973, biến cố lớn ập đến với gia đình khi ông Phước bị địch bắt. Con gái chưa đầy 2 tuổi, bà Ngọc một mình gồng gánh mọi thứ: vừa làm việc nuôi con, vừa tiếp tục hoạt động cách mạng, vừa tìm cách để biết tin của chồng trong nhà giam. Có những lúc bị theo dõi gắt gao, bà phải ôm con về quê tạm lánh. Những dòng nhật ký trong thời gian này càng thêm xúc động: “Năm nay, bà ngoại, mẹ và con lại ăn tết ở Đà Nẵng. Chưa có cái tết nào vô vị, đau lòng, buồn bã như tết này. Nhớ cha vô cùng, thương con vô tận và lòng mẹ héo hon lắm. Mẹ đặt ra mấy câu này dạy con thuộc ngay: “Cha ơi mau về với con, kẻo mẹ trông đợi, kẻo con trông chờ” (trích nhật ký viết ngày mùng Một tết Quý Sửu 3/2/1973).
Nhớ thương và lo lắng khôn nguôi cho chồng nhưng bà không thể trực tiếp thăm ông vì còn phải giữ bí mật cho hoạt động cách mạng, chỉ dám gửi con theo bà nội đi thăm cha. Giọt nước mắt của người mẹ, người vợ trong hoàn cảnh nghiệt ngã khiến người đọc nhật ký không khỏi xót xa: “Con đã đi thăm cha cùng với bà nội, con được cha bồng và con ôm riết lấy cha. Cha gặp con, cha khóc vì mừng quá. Còn mẹ không được gặp cha, không được thăm cha như con, mẹ cũng khóc. Mẹ đang lo công việc làm ăn để nuôi cha, nuôi con chứ biết ngày nào cha về. Bây giờ mẹ phải làm ngày làm đêm mới có đủ cho cuộc sống, mẹ nhất định không để cho con thiếu thốn và thất học” (trích nhật ký viết ngày 12/3/1973).
Quyết định trở lại Sài Gòn trong hoàn cảnh chồng bị giam cầm, bản thân đang bị địch theo dõi là một sự lựa chọn đầy khó khăn và nguy hiểm của bà Tuyết Ngọc. Nhưng vì nhiệm vụ, vì gia đình, người mẹ ấy đã gạt bỏ mọi nỗi sợ hãi, sẵn sàng đương đầu với mọi thử thách: “Mẹ biết vào Sài Gòn mẹ cực hơn, sống vất vả hơn với hai bàn tay trắng, không nhà, chưa có việc làm nhưng thà mẹ cực khổ để con được thăm cha, mẹ được săn sóc cha. Mẹ không thể sống yên ổn nơi khác được khi thấy cha như thế và con tha thiết nhớ cha như thế. Mẹ phải hy sinh cho con. Mẹ nghĩ nhiều lắm và cũng suy tính nhiều lắm cho con và cha nên mẹ hết lo sợ cho mẹ, mẹ không nghĩ đến mẹ nữa, mẹ cần hy sinh cho con và cha con” (trích nhật ký viết tại Huế ngày 9/5/1973).
Một chi tiết đặc biệt trong cuốn nhật ký là có những trang chỉ ghi ngày tháng và địa điểm mà không có nội dung. Sau này, bà Tuyết Ngọc đã chú thích rằng đó là những ngày bà phải ôm con chạy trốn sự truy lùng của địch. Những trang có vết xé được chú thích do có bút tích của một số đồng đội chiến đấu, vì sợ địch khám xét nhà lấy cuốn nhật ký nên bà phải xé đi để đảm bảo an toàn cho đồng đội.
 |
Trang nhật ký đặc biệt ngày 30/4/1975 nhấn mạnh "Ngày vinh quang nhất của lịch sử mà đời con vinh hạnh được chứng kiến" - ảnh do tác giả cung cấp |
Gia đình sum họp, đất nước ca khúc khải hoàn
Dấn thân vào con đường tranh đấu vì độc lập, tự do, với những chiến sĩ cách mạng, còn hạnh phúc nào hơn khi gia đình sum họp sau chuỗi ngày xa cách và ngày đất nước hòa bình, thống nhất. Trong cuốn nhật ký viết cho con, có những trang viết rạng rỡ niềm vui, ngập tràn hạnh phúc. Đó là ngày ông Nguyễn Hữu Phước thoát khỏi cảnh ngục tù về cùng gia đình đón tết đoàn viên năm 1974, ngày đất nước hòa bình, thống nhất, ca khúc khải hoàn 30/4/1975: “Cha những tưởng tết này cha vẫn chưa gặp được con với nghìn trùng xa cách, không ngờ cha đã về, ăn tết bên con vô cùng đầm ấm. Cái tết nghèo nhưng là cái tết sum họp gia đình, bù lại cái tết chia ly đầy não nùng năm ngoái” (trích nhật ký viết vào xuân Giáp Dần 1974).
Trang nhật ký đặc biệt ngày 30/4/1975 được ông Nguyễn Hữu Phước trang trí rất đẹp và ông xem đó là “ngày vinh quang nhất của lịch sử mà đời con vinh hạnh được chứng kiến”. Đó là những dòng cảm xúc dâng trào “Con ơi, sung sướng quá! Vừa ăn xong cái tết Ất Mão chừng 2 tháng rưỡi thì nay một cái tết khác lại đến với toàn dân. Ôi! Sài Gòn giải phóng, lòng cha sung sướng đến run lên. Ôi! Còn niềm vui nào có thể vui hơn. Niềm mơ vĩ đại đã đến thật bất ngờ. Sự thật rồi mà vẫn ngỡ như mơ…”.
Về ý nghĩa và giá trị của cuốn “Nhật ký viết cho con yêu quý”, ông Chu Văn Khánh - Giám đốc Bảo tàng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam - cho rằng: “Đây không chỉ là những dòng nhật ký cá nhân mà còn là một chứng tích lịch sử vô giá, khắc họa một giai đoạn đầy khó khăn nhưng cũng đầy tự hào của dân tộc ta. Những câu chuyện, kỷ niệm vui buồn, dung dị mà sâu sắc trong cuốn nhật ký đã chạm đến trái tim bao người đọc, gợi nhớ về một thời kỳ gian khổ nhưng đầy ắp tình người. Ở đó, người ta cảm nhận được tình yêu thương gia đình thiêng liêng, lý tưởng sống cao đẹp, tinh thần cống hiến và hy sinh anh dũng của những cán bộ cách mạng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và khát vọng hòa bình của dân tộc Việt Nam”.
Tình yêu đất nước như một mạch nguồn vô tận chảy trong huyết quản của mỗi người dân Việt Nam. Ông Nguyễn Hữu Phước và bà Hoàng Lê Tuyết Ngọc - những cán bộ cách mạng nhiệt thành, quả cảm và là người thầy đầu tiên của con đã ươm mầm và nuôi dưỡng tình yêu thiêng liêng ấy lớn lên mỗi ngày theo cách riêng của mình, để rồi tình yêu đó tiếp tục được trao truyền, lan tỏa qua các thế hệ sau.
 |
Trang nhật ký đặc biệt ngày 30/4/1975 - ảnh do tác giả cung cấp |
Em bé 4 tuổi ngồi sau xe cha ngày thống nhất Cha chở con đi trên xe gắn máy có mẹ ngồi sau lưng, đi trong trời chiều im mát của Thành phố Sài Gòn. Trời im và mát thật. Có lẽ trời không nắng vì không muốn làm các anh bộ đội mệt nhọc, trời cũng không mưa vì không muốn làm các anh ướt át và để cho các anh vui trọn niềm vui. Các anh tiến về dinh Độc Lập ào ào như thác đổ. Chiến xa, súng ống, những cánh tay tựa đồng, những bàn chân tựa sắt đã băng ngàn cây số đang tiến về cứ điểm cuối cùng… Cha chở con đi trên đường phố, nét mặt con cũng rạng rỡ và tươi vui hơn bao giờ cả. Con giơ bàn tay búp măng lên vẫy chào các anh giải phóng và các anh đã tươi cười chào lại - không biết cha có chủ quan hay không, chứ cha nghĩ có lẽ con là em bé nhi đồng 4 tuổi duy nhất vẫy chào các anh trong giờ phút lịch sử này. Cha đưa con đi vòng quanh thành phố, xe tăng địch xơ xác, áo quần, giày vớ địch bỏ ngổn ngang… trong lúc xe tăng ta rầm rầm tiến tới, những chiếc nón cối hiên ngang, những chiếc nón tai bèo xinh xắn. Lần đầu tiên trong đời con được nhìn thấy các anh bộ đội, các anh giải phóng tiến về thành trong ngày vinh quang nhất của lịch sử…” (trích nhật ký viết ngày 30/4/1975). |
 |
Ông Nguyễn Hữu Phước chia sẻ về nội dung viết trong nhật ký - ảnh do nhân vật cung cấp |
Biết ơn hòa bình Tròn 50 năm ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Ngày 30/4/1975 cũng là ngày ông Nguyễn Hữu Phước đặt bút viết những trang cuối cùng của quyển nhật ký cho con. Hồi tưởng thời khắc lịch sử, chứng kiến sự đổi thay, phát triển của đất nước sau 50 năm, ông Nguyễn Hữu Phước không khỏi xúc động, bày tỏ: “Cảm xúc của chúng tôi thì rất nhiều nhưng đọng lại là niềm hạnh phúc khi cảm nhận được giá trị của hòa bình. Có sống và trải qua thời kỳ chiến tranh mới thấy hòa bình quý giá đến mức nào. Còn chiến tranh là còn xương tan, còn máu đổ, còn hận thù, còn những vụ thảm sát đồng bào, còn chất độc da cam tàn phá núi rừng và cơ thể con người, còn B52 làm cho ruộng đồng tan hoang, nhà cháy… Khổ đau biết nói bao nhiêu cho hết! Khi có hòa bình, cơ bản là có tất cả - có bình yên, có tình người, có điều kiện đưa đất nước phát triển. Đến hôm nay, chúng ta đã thấy được tương lai ngày càng tươi sáng của đất nước, của một dân tộc đang vươn mình trong kỷ nguyên mới. Chúng tôi biết ơn hòa bình, đồng thời vô cùng biết ơn và tưởng nhớ đến đồng bào, đồng chí, đồng đội đã hy sinh cho lý tưởng hòa bình. Chúng tôi cũng biết ơn sự ủng hộ của nhân dân thế giới đã góp phần làm nên ngày lịch sử đó”. |
Thu Hoàn