PNO - PN - Một cậu bé trong chương trình The Voice Kids VN mới phát sóng thỏ thẻ: “Con ca hát để vơi bớt mệt mỏi sau một ngày học tập”. Nghe qua, nhiều người bật cười với suy nghĩ ông cụ non của anh chàng, nhưng cũng không...
edf40wrjww2tblPage:Content
Mức sống, nhịp điệu sống và tiêu chuẩn sống tăng cao kéo theo vô số gánh nặng vật chất lẫn tinh thần. Nhiều bậc cha mẹ với tuổi thơ khốn khó, thời thanh niên cắm cúi làm lụng, hy sinh đủ bề, chen chúc vào thành phố mưu sinh cũng chỉ mong đời con mình khấm khá, rạng rỡ. Trong thâm tâm nhiều người Việt xưa nay, đại học vẫn là “chân trời mới” tối ưu để mở ra một cảnh đời tốt đẹp, một tấm vé bảo chứng thành công. Học thêm, học bớt, vào trường chuyên lớp chọn, nhiều khi cũng chỉ để giành lấy suất “đổi đời” ấy. Tôi đã lắm dịp chứng kiến cảnh cha mẹ hễ tan sở liền lao lên xe, vội vàng đến trường đèo con cái di chuyển từ lớp học chính sang lớp học thêm, còn các em đứa thì gục đầu ngủ từng giấc chớp nhoáng, đứa tranh thủ gặm mẩu bánh, miếng xôi. Khi con đã yên vị trong một lò luyện đông đúc nào đấy, cha mẹ lại đậu xe trước cổng hàng giờ, vò võ đợi con. Đôi vai của những cô cậu 18 đã gánh theo bao nhiêu ước mơ, kỳ vọng, hy sinh, đánh đổi của cả gia đình…
Nhưng quy luật luôn vậy, chỗ trên giảng đường bao giờ cũng ít hơn chỗ ngồi dự thi, nên những câu chuyện hậu thi cử vẫn là nỗi niềm muôn đời, và sự phức tạp của nó cứ thế ngày một tăng. Hy vọng càng nhiều, thất vọng càng cao, huống gì sự thất vọng ấy không chỉ của riêng thí sinh, mà còn gắn chặt với niềm vui, hạnh phúc, giấc mơ của gia đình. Tự bao giờ, một cánh cửa khép lại đã trở thành vấn đề sinh - tử, thành sự đổ vỡ, thành bi kịch của lắm người. Dĩ nhiên, không phải mọi bậc cha mẹ đều hàng ngày đe dọa, gò ép con về sự đậu rớt, điều họ làm, chỉ đơn giản là hết lòng tạo điều kiện, hết lòng đặt niềm tin vào con. Thêm vào đấy, sức ép từ tiêu chuẩn “thi đua” trong xã hội, trong học đường, trong các chương trình học trĩu vai chắc gì đã tha cho giấc ngủ của cả gia đình. Đứa con mỗi ngày đều gói ghém các loại đức tin từ nhà đến trường, từ nhỏ đến lớn và vô hình trung, đã đặt hạnh phúc lẫn thành công của bản thân đi thăng bằng trên sợi dây đại học mỏng manh.
Chuyện đã bốn năm, nhưng mỗi khi đến mùa tuyển sinh, tôi lại rùng mình nhớ lại. Em trai tôi cũng như cậu bé Quảng Ngãi nọ, gia đình có điều kiện, cha mẹ dốc sức chăm lo, lại là con trai duy nhất với bao nhiêu tự hào, kỳ vọng. Trước nay, em học trường chuyên lớp chọn, đều đứng “top” đầu, kinh qua bao nhiêu lớp bồi dưỡng, nâng cao kiến thức. Vậy mà, em cũng ngậm ngùi “rớt-đại-học” khi chỉ thiếu nửa điểm để đậu vào ngành y. Sốc, bàng hoàng, thất vọng rồi đến câm lặng. Mỗi bữa cơm gia đình đều như có đám mây sấm sét trên đầu, chỉ chờ bung vỡ là tan tành hết cả. Mẹ tôi hết an ủi rồi nhìn con tiều tụy, kiệt sức mà xót xa, ba cũng động viên con nhưng không khỏi bần thần: “Thiếu nửa điểm vẫn là rớt”. Mọi người đều như cái bóng lầm lũi, e sợ ai nói đến nỗi đau… chung. Vài tuần sau, em tôi bất ngờ có dấu hiệu điên loạn, lú lẫn khi tự hành hạ bản thân, miệng không ngừng chửi rủa, la hét. Ba mẹ khóc ròng ôm chặt con cho đến khi cậu trai 18 tuổi lả đi, thều thào: “Mẹ ơi, cho con chết…”.
Gạt nước mắt, cả gia đình dần tỉnh trí rồi quyết lên “kế hoạch cứu con”. Sau khi đưa em gặp bác sĩ tâm lý để điều chỉnh lại nhận thức và thái độ, ba mẹ bắt đầu để em thả lỏng, tự do đi xe máy, tự đăng ký những khóa học ngắn hạn, những lớp kỹ năng mềm, cho em dần tìm kiếm đam mê thực sự. Tôi nhớ hoài lời ba khuyên răn trong lúc mẹ quẫn trí: “Phải tập nhìn con như một cá nhân trưởng thành, có được có mất, và tập cho nó cách chịu trách nhiệm trước mọi quyết định của mình”.
Chính ba mẹ cũng phải tập cho mình cách nhìn thẳng vào sự thật, rằng thằng bé đích thực đã “rớt-đại-học”, rằng khi con trở nên điên loạn mới nhận ra cái giá của hạnh phúc cho con. Để rồi, suốt năm đó, mỗi khi đi đâu, nghe họ hàng hay người xung quanh hỏi han, tiếc nuối, ngài ngại cho con mình; họ không còn đau khổ dằn vặt, mà nhẹ nhàng chấp nhận: “Ừ, nó vẫn đang cố gắng”.
Trước cánh cổng đại học, đã có bao người khóc, cười, hạnh phúc, đau khổ? Dư luận, báo chí mấy năm gần đây đều ra sức cảnh báo về tình trạng bi đát, về sóng gió trong mỗi gia đình, mỗi cá nhân ở giai đoạn tiền và hậu thi cử. Biết vậy, song tại sao áp lực vẫn cứ đè nặng và các câu chuyện mỗi độ công bố kết quả càng phức tạp? Cứ vào mùa tuyển sinh, các ca tâm thần, tự tử, rối loạn, bỏ nhà ra đi lại được nhắc đến với tần suất tăng dần đều. Không bàn đến những vấn đề xã hội, giáo dục; thu về trong tổ ấm của mình, gia đình liệu đã thực sự giải phóng con trẻ và tự giải phóng mình khỏi khuynh hướng chạy theo “thành tích”? Hư thì làm lại, đời người rồi còn bao nhiêu thảm trạng hơn cả việc đậu rớt một kỳ thi.