Tìm về mùi tết

12/02/2021 - 07:45

PNO - Cái người ta nhớ đến, là mùi đất. Đất của quê nhà. Nói cách khác, mùi quê hương chính là mùi đất...

“Hương gây mùi nhớ”

Chỉ bốn từ, Nguyễn Du đã dựng lên một không gian bát ngát về một nỗi xao xuyến khôn cùng. Nhớ, bản thân đối tượng đã thuộc về dĩ vãng, vậy mà, với sự nhận diện một mùi hương quen đã từng tận hưởng, lập tức người ta lại nhớ…

Mùi nhớ là mùi gì thế?

Dạ thưa, mùi quê hương.

Quê hương, nói như nhân vật trong sách Quốc văn giáo khoa thư thì chỗ ấy, chốn ấy vẫn là “nơi đẹp hơn cả”. Thế nào là đẹp? Thì đây, “trông thấy cái hàng rào, cái tường đất cũ kỹ của nhà cha mẹ tôi. Từ cái bụi tre ở xó vườn, cho đến con đường khúc khuỷu trong làng, cái gì cũng gợi ra cho tôi những mối cảm tình chứa chan, kể không sao xiết được”. Sự liệt kê này chỉ mới đôi nét, có thế hoặc nhiều hơn thế, thì con người ta vẫn có thể tái hiện được kia mà. Nhưng rồi khi quan sát, nhìn ngắm mỗi ngày, trong lòng vẫn không “gợi ra cho tôi những mối cảm tình chứa chan”. Vì cái người ta nhớ đến, vẫn không thể có, là mùi đất. Đất của quê nhà. Nói cách khác, mùi quê hương chính là mùi đất.

Một nhà văn đau đáu với mùi đất mà tôi biết là Bình Nguyên Lộc. Mùi đất thế nào khiến người ta suốt đời mang theo trong hành trang tâm tưởng? “Mùi hay lắm. Mùi đất xông lên, sau đám mưa đầu mùa nè, mùi bông bưởi, bông sao nè, mùi củi cây rù rì nè, mùi lúa chín nè, mùi rơm khô nè, mùi phân chuồng nè, mùi rau, đậu tươi nè”. Còn gì nữa? “Đất có mùi thật sự, nhứt là đất mới xới, một mùi rất đặc biệt mà mũi họ quen ngửi cho đến ghiền, thiếu thì họ nghe thèm… Tình nhớ xứ, nhớ nhà gồm nhiều yếu tố, mà nỗi thèm mùi đất là một yếu tố quan trọng. Nỗi thèm nầy có khi mãnh liệt như là đào hát thèm và nhớ sân khấu, vũ nữ thèm và nhớ đèn màu, và y như là cá thèm và nhớ nước…”.

Văn chương đấy à? 

Không đâu, đó là tiếng lòng bật ra, không làm dáng, bẹo dạng bẹo hình, nghĩ sao nói vậy. Rằng, có câu chuyện người phụ nữ Việt lấy chồng Pháp, sang Pháp định cư và nhập quốc tịch Pháp. Ngày kia, bà lặng thầm như cái bóng dật dờ, người chồng phải cầu cứu bác sĩ nhưng không tìm ra bệnh, phải chuyển bà qua Bệnh viện La Timone - một nhà thương điên to nhất nước Pháp. Nơi này, người ta cũng bó tay.

Ngày kia, bà tâm sự với chồng là nhớ quê quá, người chồng ngạc nhiên vì nghĩ một khi đồng ý sang đây, tức là vợ mình đã có sự lựa chọn dứt khoát, nhớ với nhung gì nữa? Then chốt của tâm bệnh chính là chỗ này. Bình Nguyên Lộc lý giải, trí và lòng khó mà đi đôi với nhau vì yếu tố chính của tình yêu quê hương, không phải là ý thức vì dòng máu, mà là tình gắn bó vào thuở thiếu thời với những chân trời quen thuộc, với màu sắc, mùi vị, âm thanh mà tuổi thơ quen thấy, quen nếm, quen nghe.

Ta nhớ gì ở quê hương? 

Có thể chỉ là nhớ ngọn lửa trong bếp. Lửa nào mà chẳng là lửa, vẽ vời gì lắm? Thời buổi này, muốn lửa thì có dầu lửa/dầu hôi, bếp gas thay được không? Được, nhưng nếu thế, sao ta lại nhớ mãi mùi khói của bếp lửa đêm giao thừa, mùi khói củi của bữa cơm ngày xưa mẹ nấu? Nhân vật của nhà văn Bình Nguyên Lộc thủ thỉ: “Nè, củi mỗi thứ mỗi khác đó nhé. Củi bắp phơi khô để làm củi, thì ngọn lửa xanh như lửa đèn cồn. Vỏ măng cụt phơi khô, chụm nó nổ lách tách y như than Cà Mau. Củi nhánh sao chết rụng trên vệ đường, nó cháy rụi tỏa ra cái mùi của thời tiết gió bấc về”

Mùi quê trong mùi đất

Vậy, nhớ gì ở quê hương? 

“ - Đất…

- Tao ghiền hửi mùi đất xông lên sau mấy trận mưa đầu mùa, tao ghiền hửi mùi lúa chín, tao ghiền mùi phân chuồng. Tao muốn hưởng mùi đất vài năm trước khi theo về với ông bà”. Khi con gái làm ăn thất bát, giục mẹ bán đi mảnh đất hương hỏa, rồi đi Sài Gòn, nơi đó vui lắm, bà dỗi: “Tao không ham vui. Tao chỉ thương mến quê hương thôi. Đi, tao nhớ gốc cây đa đằng miếu, tao nhớ con rạch sau nhà, tao nhớ… Tao nhớ đến cái mùi đất ở đây… Tao cũng không bán nhà được. Tao có thể bán để cho tụi bây tiền, rồi cất chòi tranh mà ở, nhưng tao thương nhà nầy lắm. Quen mắt quá đi rồi, cái thềm rêu phủ cũng quen, tấm vách bổ kho mọt gậm cũng quen, tao nghe như là cha mầy còn vô ra đâu đây. Không…”.

Ảnh minh họa
Ảnh minh họa

Một khi xa nơi chôn nhau cắt rốn, họ làm sao có thể quên được vườn cây mà ông bà cha mẹ đã trồng, che rợp mát tháng ngày niên thiếu? Nhân vật của Bình Nguyên Lộc kể về vợ mình từ miệt vườn lên Sài Gòn: “Chợt một bữa kia không biết nhờ gì gợi ý, bà nhà tôi đi mua chậu, đi tìm đất, ra đặt mấy cái chậu đất ấy ở sân trong, giữa nhà trên và nhà bếp. Bà nhà tôi trồng rau răm, rau tần dài, hành hương, ớt, không mấy tháng mà sân trong không còn chỗ để chơn nữa, vì chậu cứ được sắm thêm hoài, thật là bất tiện. Thuở ấy rau cỏ có bao nhiêu tiền đâu, đi chợ mua hai xu, cả nhà ăn cả ngày không hết... Bà ấy lại không còn thì giờ nghỉ ngơi nữa... Vậy, mà kể từ ngày ấy, bà nhà tôi vui vẻ trở lại như hồi vợ chồng tôi mới cưới nhau”. Tôi nghĩ sở dĩ vui, bởi bà đã tìm lại được ký ức tưởng chừng đã thất lạc. Ký ức đó vẫn mới. Không hề cũ. 

Nhìn rộng ra, đất đã có từ hơn bốn ngàn năm của thời dựng nước nhưng có bao giờ là cũ đâu. Một sức sống tràn trề hy vọng và gắn bó. Phải giữ gìn lấy nó. “Đất nước chỉ tồn tại được nhờ những kẻ nhớ thương nó, bám víu vào nó thôi” - câu văn của Bình Nguyên Lộc viết như giãi bày cái tư cảm của bất cứ kẻ nào xa quê luôn ngóng về quê. Rồi, đất ấy, gặp lúc thủy hỏa đạo tặc thì cằn nhằn: “Đất nước gì mà kỳ cục quá, cái xứ này…” chăng? “Nói bậy nữa đi. Đất của mình, nước của mình mà bà dám nguyền rủa hả? Hồi nào cúng vái, bà nói phục ông bà đất nước lắm mà…”, Sơn Nam từng viết. 

Sở dĩ trích dẫn, nào phải tầm chương trích cú, bởi tôi còn muốn ngụ ý rằng, văn chương không chỉ là câu chữ, mà ở đó, còn gửi gắm một điều gì canh cánh trong lòng. Trong văn học miền Nam trước năm 1975, chưa bao giờ Bình Nguyên Lộc hoặc Sơn Nam được ca ngợi, tôn vinh là “nhà văn thời thượng”, tung hô ồn ào trên báo chí. Thế nhưng, một khi sống và viết trong tâm thế “cuống rốn chưa lìa”, trang viết của họ không lỗi thời với nhịp sống hôm nay. Làm sao có thể mất đi mùi đất trong mùi nhớ của đời người? Một bài học cho tôi - kẻ cầm bút đã ăn cơm của Tổ nghề đến mòn răng…

Nhớ đất, đã đành, nhưng ngay cả con cá sống tại đó - cũng nhớ nữa. Khi lưu dân vùng Ngũ Quảng vào đến miền Nam vài trăm năm trước, từ quan sát, họ đã đặt tên cho một loại cá là “cá lạc mạ”. Mạ là mẹ. Khi vào mùa mưa cuối mùa, nước dâng lênh láng sông rạch, cá phải “chạy” theo dòng nước xiết, bị cuốn đi, thế nhưng vẫn có một mớ cá cố lội ngược dòng, quyết bám trụ dù có thể nay mai sẽ chết khô khi ao vũng cạn hết nước. Loại “cá lạc mạ” này dại quá chăng? Sau đây là đối đáp của nhân vật Bình Nguyên Lộc: 

- Ở lại để làm gì?
- Không biết để làm gì. Chỉ thương là ở lại thôi.

- Đói chết. 
- Đói cũng được, miễn là toại lòng thương. 

Lê Minh Quốc

 

 

 

news_is_not_ads=
TIN MỚI