Trong mưa bom, hoa tình yêu vẫn nở - Bài 1: Nửa thế kỷ yêu hoa khôi của rừng

16/04/2025 - 06:44

PNO - Ông bà tâm sự do trải qua thời bom đạn, từng vuốt mắt nhiều đồng đội, hơn ai hết, họ yêu quý cuộc sống yên bình. Dù khi còn công tác hay đã nghỉ hưu, dù lúc trẻ khỏe hay già yếu, ốm đau, ông bà vẫn sát cánh bên nhau cùng hoạt động xã hội tích cực.

LTS: Giữa khói lửa chiến tranh, sự sống trở nên mong manh hơn bao giờ hết. Thế nhưng, trong mưa bom, bão đạn, tình yêu vẫn nảy lộc, đâm chồi.

Tình yêu thời chiến còn là sự tổng hòa của tình yêu Tổ quốc, tình đồng chí, nghĩa đồng bào, tình yêu lứa đôi, gia đình, chồng vợ; là động lực, là nguồn sống để mỗi người Việt Nam thắp lên hy vọng từ bóng tối, theo đuổi lý tưởng, chiến đấu vì hòa bình, độc lập.

50 năm sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, gặp lại những chiến sĩ cách mạng đã có những mối tình tuyệt đẹp ngày nào, nhìn cuộc sống hạnh phúc sum vầy bên cháu con của họ, chúng ta càng hiểu thêm vì sao họ chiến đấu, vì ai họ yêu thương. Mỗi câu chuyện là một đóa hoa góp phần làm đẹp thêm bản hùng ca của dân tộc…

Cô y tá Ngọc Duệ và anh vệ binh Xuân Hà thuở thanh xuân - Ảnh do nhân vật cung cấp
Cô y tá Ngọc Duệ và anh vệ binh Xuân Hà thuở thanh xuân - Ảnh do nhân vật cung cấp

Khi nghe hỏi ấn tượng thuở ban đầu về vợ, ông Lê Xuân Hà (thành viên Ban Liên lạc cựu Tù chính trị, tù binh Việt Nam vượt ngục) dí dỏm nói: “Hồi xưa, bả lanh lợi, khỏe mạnh, trắng trẻo, tóc dài lắm”.

Bước chân khập khiễng, thân người đổ dồn một bên vì thương tích trong chiến tranh và di chứng tai biến lúc về già, ông tiến về phía cầu thang, nơi có bức ảnh thiếu nữ treo trên tường. “Đó! Hồi xưa bả là hoa khôi của đơn vị” - ông khoe hình bà, nét mặt đầy yêu thương. Bà Đào Thị Ngọc Duệ xua tay, bẽn lẽn cười: “Hoa khôi gì đâu. Hồi xưa ở trong rừng thấy… khỉ cũng đẹp nữa”.

“Chị” Duệ gửi “em” Hà

Theo gia đình từ Bến Tre lên Lâm Đồng lập nghiệp, cô bé Ngọc Duệ đã thoát ly phục vụ cách mạng vào năm 1966, khi mới 14 tuổi. Mưu trí, gan lì, chịu khó, Ngọc Duệ lần lượt hoàn thành tốt các nhiệm vụ rải truyền đơn, làm dân vận cho đồng bào dân tộc, làm bộ binh, du kích, pháo binh…

Năm 1972, khi là y tá chiến trường, cô được điều đi học chính trị tại T645 - Cục Chính trị Miền (tiền thân của T67) và bắt đầu câu chuyện nợ duyên với anh lính vệ binh Lê Xuân Hà.

Khi tôi hỏi “Bà là hoa khôi chắc hẳn được nhiều người để ý, làm sao ông chiếm được trái tim người đẹp?”, ông Xuân Hà cười: “Có gì đâu, do tui “cao tay ấn”. Làm vệ binh, khi canh gác, tui có cơ hội “đón đường” bả hoài, biết được lịch trình bả đi công tác, nhận bông băng, đi tải lương thực hay khám bệnh, chăm sóc thương bệnh binh”. Rồi ông thao thao đọc thơ: “Đẹp trai không bằng chai mặt, đẹp trai đi bộ không bằng mặt rỗ đi honda”.

Bà nhìn ông, góp lời: “Hồi xưa anh lính này khỏe mạnh, lực lưỡng lắm, chẳng bao giờ nhức đầu sổ mũi gì để cô y tá được tiếp cận. Đơn vị có nội quy nghiêm ngặt về chuyện yêu đương nên không ai dám thể hiện ra bên ngoài. Ngồi gần nhau phải đợi ban ngày, mà phải ngồi chung 3-4 người chứ không được ngồi tâm sự riêng. Thấy người kia ngồi ăn cơm, mình cũng muốn xách chén lại ăn chung bàn nhưng không dám vì yêu nhau khó giấu lắm, ánh mắt cứ… xẹt tia lửa điện, môi cứ nở nụ cười. Sợ đơn vị biết sẽ kỷ luật, mình đành ngồi bàn xa xa, ngắm tạm… cái lưng cho chắc ăn”.

Những khi nhớ nhau, bà đánh liều viết thư, nhờ giao liên gửi giúp. Dù nội dung thư chỉ là hỏi thăm sức khỏe, động viên công tác tốt, hẹn nhau ngày giải phóng nhưng sợ thư bị phát hiện, bà biên tên người gửi là nam giới hoặc để “chị Duệ gửi em Hà”.

Nhận được thư từ “chị Duệ”, “em Hà” vui như hội, đọc tới đọc lui thuộc làu. “Em Hà” tìm túi ni lông để bọc thư cho khỏi ướt, rách mỗi khi băng rừng lội suối hành quân. Ông bà hiểu thời chiến tranh khốc liệt cần có những quy định nghiêm ngặt để các cặp đôi không xao lãng nhiệm vụ chung, để tiến gần đến ngày đất nước tự do, độc lập, người người cùng an hưởng thái bình.

Hạnh phúc lắm rồi, cần chi khoác áo chú rể, cô dâu

Một ngày đầu năm 1974, gạt bỏ nỗi lo sợ, ngại ngùng, Ngọc Duệ thưa thiệt với thủ trưởng rằng cô và anh Xuân Hà yêu nhau và cô đã có thai. Thủ trưởng bất ngờ: “Các anh, các chú “canh” sát lắm mà, sao 2 đứa bây làm lẹ vậy, sao không đợi giải phóng? À, mà Lộc Ninh đã giải phóng rồi, ngày hòa bình gần thôi”. Thủ trưởng quay vào bàn, viết ngay giấy xác nhận vợ chồng. Ngọc Duệ cầm giấy xác nhận mà nước mắt tràn mi, vội đi tìm đồng chí - chồng.

Ông bà Xuân Hà - Ngọc Duệ bên bức ảnh đồng đội năm xưa, trải hơn nửa thế kỷ, kẻ còn người mất - ẢNH: DIỆU HIỀN
Ông bà Xuân Hà - Ngọc Duệ bên bức ảnh đồng đội năm xưa, trải hơn nửa thế kỷ, kẻ còn người mất - Ảnh: Diệu Hiền

Từ ngày đó, cặp vợ chồng được đặc cách ngủ từ võng lên… lều. Đó đúng nghĩa là túp lều tranh với tranh bện thành vách, mái che lá trung quân. Gió khuya thổi lạnh, anh Xuân Hà lấy tấm ni lông bao quanh lều.

Bên nhau chỉ vài tháng, anh nhận nhiệm vụ mới. Vợ chồng họ ôm nhau thật chặt, cầu chúc bình an, hẹn nhau trùng phùng khi đất nước thanh bình. Sinh con được vài tháng, Ngọc Duệ giao con cho gia đình nuôi dưỡng để ra tuyến đầu, cùng đồng đội tiếp quản Hố Nai (Đồng Nai), hòa cùng các cánh quân tiến về Sài Gòn vào tháng Tư lịch sử.

Sau ngày hòa bình, thượng sĩ Lê Xuân Hà nhận công tác ở ngành thể dục thể thao còn thiếu úy Đào Thị Ngọc Duệ công tác trong ngành thức ăn chăn nuôi. Dù khi còn công tác hay đã nghỉ hưu, dù lúc trẻ khỏe hay già yếu, ốm đau, ông bà vẫn sát cánh bên nhau cùng hoạt động xã hội tích cực: quyên góp lương thực cho người nghèo, giúp đỡ gia đình thương binh, liệt sĩ, người có công với cách mạng, tìm đồng đội, tìm hài cốt đồng đội… Ông bà có với nhau 3 con trai, 6 cháu nội chăm ngoan, học giỏi.

Hơn 50 năm “xách chén ăn cơm chung”, ông bà vẫn chưa khoác áo cưới dù đã đăng ký kết hôn năm 1988. Bà khoát tay: “Cưới hả? Đâu cần!”. Ông tiếp lời: “Không mặc áo chú rể cô dâu mà sống hạnh phúc, chưa bao giờ nói tiếng chia tay, cứ sống với nhau tới chừng nào… chết thì thôi”.

Ông bà tâm sự do trải qua thời bom đạn, từng vuốt mắt nhiều đồng đội, hơn ai hết, họ yêu quý cuộc sống yên bình. Những mâu thuẫn, nếu có, thường chỉ xoay quanh chuyện vụn vặt như ông đi nhậu còn bà lo cho sức khỏe của ông; ông kho cá, bà ăn không vừa miệng nên giành tự kho khiến ông buồn, hay bà mới lau nhà, ông đã dẫm chân lên… Nhiều đêm có đồng đội cũ ghé thăm, họ lại thức trắng để ôn chuyện cũ, nhắc lại những cái tên đồng đội ngã xuống rồi cùng khóc, kể chuyện “giành người yêu” trong rừng rồi cùng cười…

Là y tá, bà nhiều phen cứu ông qua cơn thập tử nhất sinh. Rồi một ngày, đến phiên ông cứu bà khi bà bất ngờ hôn mê tại nhà. Ông hốt hoảng gọi các con về đưa bà đi cấp cứu, luôn miệng cầu nguyện cho “hoa khôi” của mình. Hiện ông bà vẫn tự chăm nhau, khi có việc sẽ gọi các con về. Bị liệt nửa người, sức khỏe yếu, ông vẫn dí dỏm, lạc quan: “Tui phải khỏe, phải sống hoài để canh bả, đừng để bả “vượt ngục” từ nhà ra… bệnh viện nữa”.

Trại giam phú quốc và nỗi ám ảnh khôn nguôi
Năm 1969, chưa đầy 20 tuổi, chiến sĩ Xuân Hà bị trúng đạn ở đầu, vai, bẹn khi đang sát cánh cùng lực lượng đặc công chiến đấu ở Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Sa vào tay giặc, anh bị đày vào “địa ngục trần gian” tại trại giam tù binh chiến tranh Phú Quốc. Với số tù 3.346, anh chịu mọi cực hình tra tấn, bị giam trong chuồng cọp.

Năm 1972, chi bộ trại giam bí mật lập kế hoạch đào hầm hàm ếch B2, trải hơn 3 tháng đạt chiều dài hơn 30m để vượt ngục. Công cụ đào hầm của anh và bạn tù chỉ là 1 muỗng, 1 ca, 1 cà mèn inox được phát để ăn cơm, uống nước… Chuyến vượt ngục thành công, 27 đồng chí trở về. Anh Xuân Hà được điều về Lộc Ninh nhận công tác mới, rồi phải lòng cô y tá Ngọc Duệ.

Tô Diệu Hiền

 

news_is_not_ads=
TIN MỚI