 |
Ông bà Quang Xuân - Dân Sáng - Ảnh do nhân vật cung cấp |
Cưới hụt, cưới lại lần hai
Đến lán cứu thương, vừa thấy anh Xuân với chằng chịt bông băng trắng toát, cô Sáng liền đưa bịch đồ rồi nói: “Anh Ba ơi, quà này của anh Sáu Phương”. Xuống xuồng rời lán, anh Sáu Phương phê bình:
- Sao em chưa hỏi thăm câu nào đã đưa quà và sao không nói là quà của em?
- Tiền anh đưa thì quà đó là của anh mà!
Sáu Phương lắc đầu: “Thiệt tình…!”. Cô Sáng mới thú thật nhìn thấy anh Xuân thương tích khắp người, cô xót xa và bối rối, không biết nói gì.
Ít nói, ngại giao tiếp là những điểm yếu của cô Sáng ở tuổi đôi mươi, khiến anh Xuân ngỡ cô kiêu kỳ. Làm công tác bảo mật ở Tỉnh đội Kiến Tường, đôi lần cô sang đơn vị anh để mượn máy đánh chữ. Cũng có khi anh sang đơn vị cô hỗ trợ về nghiệp vụ cơ yếu. Anh bối rối chưa tìm được chìa khóa mở cửa trái tim thì hay tin có người sắp coi mắt cô. Một người bạn hối anh mau tiến tới, “đừng để ông kia cưới bé Tư mất, uổng lắm!” (bé Tư là tên gọi thân thuộc của cô Sáng).
Rồi anh Xuân bị thương, may mắn được bàn tay chăm sóc tận tình của mẹ cô Sáng - y sĩ của tỉnh đội. Tình huống ấy càng khiến tình cảm giữa anh và cô thêm khăng khít. Phong cách bình dị, tấm lòng chân thành, cử chỉ quan tâm của cô dần xua tan cảm nhận lạnh lùng, kiêu căng ban đầu trong anh.
Khi tình yêu đã đủ chín, anh Xuân xin đơn vị được về phép để tính chuyện vợ chồng nhưng hôn lễ bất thành vì thời điểm đó “cô dâu” được điều đi học báo chí ở Trung ương Cục Miền Nam (Tây Ninh). Thời chiến, liên lạc hạn chế nên anh không biết tin này. Cưới hụt, chú rể tiu nghỉu quay về.
Trong căn nhà ở quận Bình Thạnh, TPHCM rộn tiếng chim, ở tuổi trên dưới 80, ông bà Quang Xuân - Dân Sáng cùng hồi tưởng về ngày cưới. Bà nói “cưới vào ngày 25”, ông tiếp lời “… tháng 11 năm 1969”. Rồi ông bà tủm tỉm cười, say sưa kể về đám cưới không lễ vật. Bàn tiệc đơn sơ với nước trà, ít bánh kẹo, nồi cháo gà, cô dâu vẫn mộc mạc trong chiếc áo bà ba màu xám. Đàng trai chỉ có chú rể với… tờ giấy xác nhận cho phép kết hôn từ Đảng ủy Phòng Tham mưu Quân khu 2 (nhà trai) gửi đến Tỉnh đội Kiến Tường (nhà gái).
“Bà xã đâu có lãnh đạo, chỉ huy tôi”
Trước tình hình chiến sự khốc liệt, kế hoạch sinh con của đôi vợ chồng cứ tạm hoãn do nhiệm vụ bộn bề và sự xa cách, nhất là giai đoạn 1972, ông phải công tác tận Campuchia.
Năm 1974, Minh Thuận - con gái đầu lòng của ông bà - ra đời trong gian khó. Thiếu thốn trăm bề, thường xuyên uống nước cơm thay sữa mà đứa trẻ vẫn lớn lên như trái bầu, trái bí.
Có đoạn ký ức khiến ông bà đỏ hoe đôi mắt khi kể lại. Đó là cuối năm 1974, đầu 1975, ông về đến đơn vị Quân khu 8, vừa đào xong công sự thì pháo bắn vào, miểng pháo găm ngay chỗ bé Thuận vẫn nằm hằng ngày. “Khi pháo bắn, tôi vác con chạy vào hầm ẩn nấp. Con thấy ba xốc xốc mình trên vai tưởng giỡn nên thích chí, cười toe toét…” - ông kể.
Bà thừa nhận mặc dù ông không lãng mạn, không nói lời ngọt ngào nhưng sự chí tình của ông đã sưởi ấm cuộc đời bà và con cháu. Bà cảm kích sự hy sinh của ông - người đã quán xuyến hậu cần, nhường đường cho bà học tập, phát triển.
 |
Ông Quang Xuân và các con, cháu trong gia đình mừng sinh nhật thứ 78 của bà Dân Sáng - Ảnh do nhân vật cung cấp (chụp năm 2024) |
Với quan niệm “không ai được phép đưa sự ngu dốt của mình vào công việc”, bà luôn vượt lên chính mình, hoàn thành khóa học từ bổ túc văn hóa, tuyên huấn cho đến cao cấp chính trị, cử nhân luật… Ông tươi cười cho biết: “Bà xã cứ học hoài, còn tôi ngược 180 độ”. Có người bảo ông bà đã qua thời chiến tranh gian khổ, giờ hòa bình thì tận hưởng an nhàn, học hành chi cho mệt, nhưng bà vẫn vững lòng vì nghĩ phải học mới biết cách làm đúng để xây dựng đất nước, mới nuôi dạy con tốt. Bà học cái gì, học ở đâu, xa hay gần - ông đều ủng hộ.
Được hỏi “Ông có từng ngại khoảng cách sẽ thêm xa khi vợ mình không ngừng tiến lên trên đường công danh sự nghiệp?”, ông Xuân cười đáp: “Tôi cảm thấy vui và không ngại gì. Ai lo chuyện của người nấy, sao phải so đo! Với lại, ở nhà, bà xã đâu có bao giờ lãnh đạo, chỉ huy tôi!”.
Yêu thương, tôn trọng nhau, ông bà còn choàng gánh cho nhau, lần lượt chăm sóc cha mẹ 2 bên già yếu, bệnh tật. Năm 1988, cha bà (ở TPHCM) bị suy tim khiến bà định nghỉ việc để chăm sóc khi đang giữ chức Trưởng phòng tổ chức Trường Đảng Tiền Giang. Ông ngăn: “Bà mới học xong, sao lại nghỉ làm? Cứ để tui nghỉ”.
Là trung tá, ở cương vị Trưởng ban Cán bộ Tỉnh đội Tiền Giang lên vị trí cao hơn nhưng ông quyết xin nghỉ để chăm cha vợ. Ông chu đáo đến nỗi người ngoài nhìn vào cứ tưởng là con ruột. Thời điểm này, bà Sáng cũng xin chuyển công tác về Trường Cán bộ TPHCM (hiện là Học viện Cán bộ TPHCM).
Từ ngày về hưu, ông không nề hà việc gì, từ chăm sóc người thân, đưa rước con… đến ngồi chợ Mỹ Tho bán bánh kẹo, thuốc rê… hay lên Bình Phước lập trang trại chăn nuôi heo. Đó là món quà quý nhất bà luôn nhận từ ông - món quà kết bằng tình thương; bằng hành động chân thành; bằng sự tin tưởng, tôn trọng.
Tình thương đó thể hiện rõ nét nhất khoảng 1 năm nay khi ông bà liên tiếp gặp biến cố sức khỏe: ông gãy chân, bà gãy tay. Rồi khi đi tái khám tay, bà lại xui rủi bị xe tông gãy chân. Từng chén cơm, viên thuốc, từng cái băng gạc, từng bước dìu nhau, từng câu chuyện vui cho quên đau đớn - họ vẫn tiếp tục như hình với bóng trên mọi chặng đường…
Không để đời con lặp lại cái khổ của mình Ông Nguyễn Quang Xuân chia sẻ: Từ nhỏ, tôi đã thiếu tình thương nên tâm nguyện sẽ làm tất cả vì con, không để đời con phải lặp lại những cái khổ mình đã đi qua. Cha hy sinh từ lúc tôi mới 6 tuổi. Mẹ đưa tôi và người anh gửi ngoại nuôi. Tôi bắt đầu cuộc đời trôi dạt - khi thì nương nhờ cửa chùa, khi thì sống cảnh bữa đói bữa no. Từ khi làm cha, tôi tập để ý, lắng nghe để thấu hiểu con, để chăm sóc, giáo dục con tốt, thay vì những lý thuyết khô cứng. Nhờ vậy, các con gần gũi với tôi để mẹ có thời gian học hành, phấn đấu. Tôi cho rằng hạnh phúc không phải là đợi đến khi bạn đời yêu cầu rồi mình mới đáp ứng, mà phải đoán bắt được mong muốn của nhau, không chờ “nửa kia” phải nói ra. |
Tô Diệu Hiền