Nhìn vật nhớ người
Bảo tàng Văn học Việt Nam vừa tiếp nhận các hiện vật kỷ niệm của cố nhà văn Nguyễn Huy Thiệp (1950-2021), được gia đình nhà văn trao tặng. Các kỷ vật gồm bản thảo viết tay chương 5 tiểu thuyết Bên rìa nước, tập truyện ngắn Những ngọn gió Hua Tát, Trò chuyện với hoa thủy tiên, bài viết về nhà văn Cổ Long cùng các vật dụng nhà văn sử dụng lúc sinh thời: bút, mũ, kính lão, thẻ nhà văn... cùng 50 bức ảnh tư liệu quý.
Trước đó, bảo tàng cũng nhận được hiện vật kỷ niệm của cố nhà thơ Bảo Định Giang (1919-2005) gồm tượng chân dung ông, sách, sổ tay ghi chép và hơn 100 bức ảnh tư liệu lưu lại quá trình sáng tác, hoạt động văn học nghệ thuật của ông từ trước năm 1975 đến năm 2000.
 |
Chiếc máy đánh chữ của nhà văn Xuân Đức |
Những người cầm bút lúc sinh thời đến với độc giả bằng các tác phẩm có giá trị, với những ấn bản sách được hoàn thiện chỉn chu. Nhưng khi họ đi xa, cuộc đời sáng tác của họ lại hiện diện qua những kỷ vật còn để lại, ký ức về họ được nhắc nhớ bằng kỷ niệm trong tâm khảm gia đình, bạn bè, độc giả thương mến.
Trong không gian trưng bày về nhà thơ Bảo Định Giang có chiếc gậy trúc gắn bó với ông từ năm 1970, đã theo ông vào chiến trường Đông Nam Bộ. Trên mỗi đốt gậy là chữ ký của những người bạn văn chương: nhà thơ Giang Nam, Hoài Vũ, Chim Trắng, nhà văn Lê Văn Thảo, Lý Văn Sâm...
Kỷ vật của nhà văn Xuân Đức (1947-2020) là chiếc máy đánh chữ được ông sử dụng khi đang học khóa I Trường Viết văn Nguyễn Du, giai đoạn 1979-1980. Nhà văn đã dùng chiếc máy đánh chữ ấy để hoàn thành tác phẩm Những mảnh làng, Bến đò xưa lặng lẽ... Còn kỷ vật của nhà văn Hồ Phương (1930-2024) là chiếc đồng hồ đã theo ông qua 2 cuộc kháng chiến, cùng ông tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, kim giờ kim phút vẫn chạy báo thời gian trên những cung đường chiến đấu ác liệt, khi nhà văn cùng đồng đội bơi qua sông...
Cuộc đời sau trang viết của các nhà văn, nhà thơ hiện lên từ những hiện vật còn kể cho thế hệ sau về ký ức một thời đã xa. Như chiếc xe đạp của nhà thơ Tú Mỡ (1900-1976) được mua với giá 270 đồng, bằng tiền nhuận bút 2 tập thơ Dòng nước ngược 1 và Dòng nước ngược 2.
Đó cũng là những năm tháng đất nước còn khó khăn, gian khổ. “Nắm đất khói lửa” nhà thơ Nam Hà (1935-2018) mang về từ chiến trường Đông Nam Bộ mãi mãi lưu dấu những năm tháng sống, chiến đấu và sáng tác của người lính - nhà văn Nam Hà trên mảnh đất này. Ngày chiến thắng, ông đã mang theo nắm đất từ vị trí chốt chặn cầu Tàu Ô (Bình Phước trước kia, ngày nay nơi này là di tích lịch sử) về Hà Nội làm kỷ niệm.
 |
Bút tích của cố thi sĩ Hoàng Cầm |
Chữ người để lại...
Hiện nay, Bảo tàng Văn học Việt Nam đang trưng bày hiện vật kỷ niệm của các nhà văn được trao tặng Giải thưởng Nhà nước và Giải thưởng Hồ Chí Minh. Trong số các kỷ vật quý còn có những bức thư, những trang bản thảo viết tay của các nhà văn lúc sinh thời. Tiểu thuyết Dòng sông thơ ấu với nét chữ nghiêng nghiêng của nhà văn Nguyễn Quang Sáng viết từ năm 1980. Bản thảo truyện ngắn Đôi bạn của nhà văn Nguyễn Thi vẫn còn đó sau hơn nửa thế kỷ. Nhà thơ Hoàng Cầm để lại cho đời bài thơ Một thoáng suy tư viết tay trên giấy A4 bằng 2 màu mực: “Có đôi lúc ngắm thời thơ trẻ dại/ Sao mê si lơi lả thế quê chiều/ Sao dáng hình lướt thướt liêu xiêu/ Đi nhanh thế về phương nhòa thế kỷ...”.
Nhà văn Đoàn Giỏi đã đi xa nhưng dấu bút của ông vẫn còn trong bài viết Bèo gió giang hồ, với những dòng lưu lại kỷ niệm cùng những người bạn văn trong chuyến đi đảo Cô Tô năm 1972: “Chiều tháng Giêng năm Nhâm Tý (1972) trên chiếc kinh hạm T.152. Ngoài khơi vịnh biển Bắc Bộ trời còn lạnh lắm. Trên đường từ đảo Cô Tô về đảo Hải Vân, trời đã ngớt mưa. Mấy anh em cùng kéo cá lên boong. Đợt gió mùa đông bắc “bổ sung” đã dịu rồi nhưng biển vẫn không ngớt gầm gào...”. Ông viết bài này để thay lời tiễn bạn - nhà văn Nguyễn Tuân - tạ thế vào năm 1987. Chuyến đi năm ấy còn có các nhà văn Nguyễn Văn Bổng, Diệp Minh Châu, Phạm Tường Hạnh, Đoàn Minh Tuấn...
 |
Bài viết của nhà văn Anh Đức tưởng nhớ nhà văn Nguyễn Huy Tưởng vào năm 1985 - Một số kỷ vật quý của các nhà văn được lưu giữ và trưng bày tại Bảo tàng Văn học Việt Nam - Nguồn ảnh: Bảo tàng Văn học Việt Nam |
Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng và Anh Đức đều đã về miền mây trắng nhưng vẫn còn đó những trang chữ nhà văn Anh Đức viết lời tưởng nhớ nhân dịp 25 năm ngày mất của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng, vào tháng 3/1985. “Tập kết ra miền Bắc năm 1954, tôi gặp anh Tưởng một vài năm sau đó. Lần đầu gặp tác giả Những người ở lại và Ký sự Cao Lạng, tôi thấy đó là một nhà văn có vóc dáng hơi cao lớn, ăn mặc giản dị, nói năng từ tốn và trên môi luôn nở một nụ cười hiền. Chỉ mới gặp thoáng chốc thôi, tôi đã biết đây là một con người đôn hậu...” - trích bài viết Nhớ anh Tưởng. Những lời tưởng nhớ dành cho nhà văn đàn anh của nhà văn Anh Đức cũng là câu chuyện sáng tác của thế hệ nhà văn đi trước.
Chữ người để lại trong những kỷ vật hôm nay còn cho người đọc thấy tình cảm thân thiết giữa các nhà văn, nhà thơ; những ký ức chứa đựng cả cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của người cầm bút. Và những trang chữ nguyên vẹn cùng thời gian sẽ mãi mãi nhắc nhớ về những thế hệ nhà văn đã sống, chiến đấu và cống hiến cả cuộc đời mình...
Từ chiến trường, những kỷ vật trở về... Bên cạnh những áng văn, bài thơ sáng tác từ trong lửa đạn, dấu ấn của những người lính - nhà văn để lại cho mai sau còn có những kỷ vật từ chiến trường. Viên gạch ở nhà tù Lao Bảo nhắc nhớ những năm tháng tù đày của nhà thơ Tố Hữu. Ông bị giam trong hầm tối chật chội, đồ ăn chỉ là cơm hẩm với cá thiu. Đó cũng là lúc ông viết bài thơ Trăng trối (1940): “Đời cách mạng từ khi tôi đã hiểu/ Dấn thân vô là phải chịu tù đày/ Là gươm kề tận cổ, súng kề tai/ Là thân sống chỉ coi còn một nửa...”. Với nhà văn Bảo Định Giang, trong số kỷ vật còn có chiếc võng “chiến lợi phẩm” từ quân đội Mỹ, nhắc nhớ những năm tháng vượt Trường Sơn của cố nhà văn - một người con đất Tiền Giang (trước đây) tập kết ra Bắc và nhiều lần trở về miền Nam chiến đấu. Chiếc bi đông của nhà thơ Lê Anh Xuân từng được dùng trong 4 năm (1964-1968), đến khi ông ngã xuống trong cuộc Tổng tiến công mùa xuân Mậu Thân 1968… Những nhà văn - người lính ra chiến trường cầm súng bảo vệ Tổ quốc vẫn sáng tác bên chiến hào, lưu giữ tác phẩm trong những cuốn sổ tay, bảo vệ bản thảo trong thùng đạn chôn xuống đất hoặc thả trôi trên suối. Nhà văn viết bằng ngòi bút và bảo vệ mình bằng vũ khí; ủ ấm qua mùa đông bằng chiếc áo len của hậu phương; cập nhật tin tức qua đài bán dẫn... Tất cả kỷ vật ấy đã ở lại với thời gian. Mỗi kỷ vật là một câu chuyện, mỗi dấu nhớ từ hiện vật, là một cuộc đời sau trang viết của những người cầm bút... |
Lục Diệp