Nhắc đến giáo sư Phạm Thị Trân Châu, Phó chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam Nguyễn Thị Minh Hương không giấu tình cảm đặc biệt dành cho một bậc trí thức hiếm có. Trong lần gặp mới đây - khi đại diện hội đến thăm và trao tặng biểu trưng tri ân những cống hiến của nữ giáo sư đối với Giải thưởng Kovalevskaia, bà Minh Hương kể lại: “Vẫn là dáng người nhỏ nhắn quen thuộc, giọng Quảng nhẹ mà rõ ràng, bà ân cần hỏi thăm về giải thưởng và đặt nhiều kỳ vọng vào sự vươn lên của thế hệ nữ trí tiếp theo”.
Những công trình tâm huyết từ trái tim
Dù tuổi cao, trí tuệ của giáo sư Phạm Thị Trân Châu vẫn minh mẫn và sự say mê với khoa học vẫn còn vẹn nguyên. Sinh năm 1938 tại Quảng Nam, trong một gia đình khoa bảng, dù cuộc sống cơ cực, thiếu thốn, song chưa bao giờ, gia đình để việc học của bà bị trì trệ.
Từ mái nhà tranh nghèo, Phạm Thị Trân Châu đã bước vào con đường học vấn với thành tích nổi bật: học sinh ưu tú của Liên khu V, sinh viên khóa đầu tiên Trường đại học Tổng hợp Hà Nội (năm 1956), rồi học bổng nghiên cứu sinh tại Ba Lan - nơi bà bảo vệ cả hai luận án: tiến sĩ (năm 1974) và tiến sĩ khoa học (năm 1985).
 |
Giáo sư Phạm Thị Trân Châu nhận biểu trưng của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam về những đóng góp cho Giải thưởng Kovalevskaia - Ảnh: Hoa Nguyễn |
Thời điểm ấy, bà lựa chọn nghiên cứu hóa sinh học - miền đất trống với thách thức từ mọi phía: cơ sở vật chất nghèo nàn, thiếu hóa chất, thiết bị, thiếu cả tài liệu. Nhưng với sự kiên trì, bền bỉ cùng kiến thức được học từ nước ngoài, bà đã có nhiều nghiên cứu mang tính ứng dụng thực tiễn cao, đi vào cuộc sống.
Chứng kiến nỗi đau của những bệnh nhi điều trị bỏng tại Viện bỏng Quốc gia, bà đã nghiên cứu sử dụng chồi dứa, phần phế phẩm trong nông nghiệp, để chiết xuất enzym bromelain, tạo ra prozimabo. Chế phẩm này giúp vết bỏng được làm sạch mủ, giảm đau khi thay băng, tăng khả năng phục hồi. Tiếp đó là chế phẩm prozima, giúp thủy phân protein thịt bò thành bột dinh dưỡng dễ hấp thu. Đây một giải pháp dinh dưỡng có ý nghĩa quan trọng, giúp giảm tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng những năm 80 - khi đất nước còn nhiều khó khăn.
Không dừng lại ở đó, bà và các cộng sự còn phát triển ứng dụng enzym trong sản xuất nước mắm ngắn ngày, chế biến cá tạp thành bột cá phục vụ chăn nuôi - những sản phẩm gần gũi, gắn liền với bữa ăn và đời sống người Việt... “Tôi chỉ ngủ 3 đến 4 giờ mỗi ngày, thời gian còn lại dành hết vào các thí nghiệm. Nếu không có niềm đam mê nghiên cứu khoa học chắc tôi sẽ không thể đạt được những kết quả đó”, giáo sư Phạm Thị Trân Châu tiết lộ động lực để đi tới những kết quả nghiên cứu thành công.
Năm 1988, bà Phạm Thị Trân Châu là người đầu tiên được trao tặng Giải thưởng Kovalevskaia, danh hiệu cao quý nhất dành cho nhà khoa học nữ ở Việt Nam. Giải thưởng này là sự ghi nhận xứng đáng, song bản thân bà chưa bao giờ lấy đó làm điểm dừng. Hơn 60 năm nghiên cứu, bà là tác giả và đồng tác giả của hàng chục đề tài cấp Nhà nước, hàng loạt cuốn sách và chuyên khảo, có sách đã tái bản tới 12 lần. Những đầu sách như: Hóa sinh học, Công nghệ sinh học - Enzym và ứng dụng, Các protein ức chế proteinaza… được giảng dạy rộng rãi trong các trường đại học.
Bà cũng tham gia biên soạn nhiều từ điển chuyên ngành.
Nữ giáo sư được Đảng và Nhà nước trao tặng nhiều danh hiệu và phần thưởng cao quý như: Nhà giáo ưu tú, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng III, Huân chương Lao động hạng Nhì… và nhiều bằng khen khác.
Người dẫn đường thầm lặng cho nữ trí thức Việt
“Tôi may mắn vì có người chồng thấu hiểu” - bà từng nói về phó giáo sư Nguyễn Hữu Xý, người bạn đời cùng làm khoa học, đã cùng chia sẻ những giai đoạn khó khăn mà không một lời than vãn. Nhưng bà hiểu, không phải phụ nữ nào cũng có điều kiện như vậy. Nhiều phụ nữ có năng lực, có ước mơ nhưng họ bị cản bước bởi trách nhiệm gia đình, bởi định kiến xã hội. “Phụ nữ có tri thức là nguồn lực rất lớn. Nhưng để phát huy hết thì cần một cộng đồng, cần môi trường thúc đẩy”, bà tâm niệm.
 |
Giáo sư Phạm Thị Trân Châu - ảnh: Nhân vật cung cấp |
Năm 1991, khi còn giảng dạy tại Khoa Sinh, Đại học Tổng hợp Hà Nội, bà đã sáng lập Câu lạc bộ Phụ nữ trong khoa học - một tổ chức tiền thân của phong trào nữ trí thức. Đây được xem là diễn đàn đầu tiên cho các nhà khoa học nữ giao lưu, trao đổi chuyên môn, chia sẻ kinh nghiệm vượt qua khó khăn. Sau này, khi đảm nhận vai trò Chủ tịch Hội Nữ trí thức Việt Nam, bà đưa phong trào lan rộng khắp cả nước. Bà không ngại đi nhiều nơi, gặp gỡ, nói chuyện, khuyến khích từng đồng nghiệp nữ trẻ, gợi mở hướng nghiên cứu, kết nối các nguồn lực trong và ngoài nước để hỗ trợ họ.
Với vai trò Chủ nhiệm Hội đồng tư vấn Khoa học - Giáo dục - Môi trường của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, bà đã không ít lần đề xuất các chính sách tạo điều kiện cho nữ giới tham gia nghiên cứu. Không phải ngẫu nhiên, trong hơn 30 năm tham gia vào Ủy ban Giải thưởng Kovalevskaia, bà luôn là người bảo vệ hết mình cho các hồ sơ đề cử từ phụ nữ vùng sâu, vùng xa, những người lặng lẽ làm khoa học trong điều kiện thiếu thốn.
Theo bà, nữ trí thức có một sứ mệnh đặc biệt trong xã hội hiện đại. Họ không chỉ là người làm khoa học giỏi mà còn là hình mẫu truyền cảm hứng cho thế hệ sau. Trong cuộc đời làm nhà giáo, giáo sư Phạm Thị Trân Châu đã ươm mầm, khơi dậy tình yêu khoa học cho nhiều thế hệ học trò, trong đó, có nhiều người là phó giáo sư, tiến sĩ...
Bà Nguyễn Thị Minh Hương chia sẻ, giáo sư Phạm Thị Trân Châu là một người rất đặc biệt. Bà là thành viên Ủy ban giải thưởng Kovalevskaia duy nhất đã từng là cá nhân nhận giải thưởng cao quý này. Trong các cuộc họp Ủy ban giải thưởng, bà luôn tìm hiểu các thông tin từ nhiều nguồn để đánh giá sát nhất những đóng góp của các ứng viên được đề cử, từ đó có nhiều ý kiến giá trị. Với vai trò là Chủ tịch đầu tiên của Hội Nữ trí thức, bà có đóng góp rất rõ nét vào sự phát triển của tổ chức này. Đặc biệt nữ giáo sư rất quan tâm đến việc phát triển hội viên trong khu vực khoa học tự nhiên, là lĩnh vực mà hiện nay Đảng và Nhà nước đang rất quan tâm và tỉ lệ nữ tham gia khoa học còn khá khiêm tốn.
 |
- Giáo sư Phạm Thị Trân Châu phát biểu tại Đại hội đại biểu Hội nữ trí thức nhiệm kỳ 2016-2021 - Ảnh: Thu Lương |
“Tôi luôn nghĩ rằng, sự đóng góp cho xã hội, cho cộng đồng là không bao giờ đủ. Mình có kinh nghiệm, có sức khỏe không lẽ gì lại không cống hiến”, nữ giáo sư tâm huyết nói.
Là Chủ tịch của Hội Nữ trí thức trong suốt 2 nhiệm kỳ và từng là Ủy viên Ban chấp hành của Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, bà luôn có những ý kiến đóng góp sâu sắc và thực chất cho hoạt động của hội. Hơn 60 năm làm khoa học, hơn 20 năm gắn bó với phong trào nữ trí thức, những đóng góp âm thầm, bền bỉ của bà là một minh chứng sống động: phụ nữ Việt Nam hoàn toàn có thể làm được nhiều việc lớn, cống hiến xứng đáng vào quá trình bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước.
Như Diệp