Dấu ấn trí tuệ của nhà khoa học nữ Việt Nam và khát vọng bứt phá trong kỷ nguyên mới

Bài 2: Nữ tiến sĩ toán học Việt Nam đầu tiên và luận án trong mưa bom B-52

13/08/2025 - 06:21

PNO - “Cha mẹ nói rằng nếu sau này muốn quay về xây dựng đất nước, thì phải học toán và tôi đã nghe theo. Có lẽ là toán học đã chọn tôi” - giáo sư Hoàng Xuân Sính nhớ lại...

LTS: Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia tạo động lực bứt phá mạnh mẽ cho các nhà khoa học, trong đó có nhà khoa học nữ. Báo Phụ nữ TPHCM tổ chức loạt bài: “Dấu ấn trí tuệ của nhà khoa học nữ Việt Nam và khát vọng bứt phá trong kỷ nguyên mới” nhằm tôn vinh những đóng góp nổi bật của nhiều nhà khoa học nữ trên mọi lĩnh vực trải dài từ đầu thế kỷ XX đến nay.

Qua đó khẳng định vai trò, vị thế và tiềm năng của đội ngũ nhà khoa học nữ; cũng như khơi dậy và lan tỏa cảm hứng sáng tạo, đổi mới trong nghiên cứu khoa học của nữ trí thức trong bối cảnh hội nhập và cạnh tranh toàn cầu.

Bài 1: Nữ bác sĩ đầu tiên của Việt Nam - Cuộc đời tận hiến cho y học

“Tôi chọn con đường của nhiều trí thức yêu nước cùng thời, nhớ tới lời dạy của Bác Hồ đối với anh chị em học ở nước ngoài: “Mỗi người cố học giỏi lấy một nghề, sau này trở về phục vụ nhân dân”. Đó là chia sẻ của giáo sư Hoàng Xuân Sính - người phụ nữ Việt Nam đầu tiên nhận bằng tiến sĩ toán học.

Năm 1951, sau khi tốt nghiệp tú tài 1 tại Trường THPT Chu Văn An (TP Hà Nội), cô gái trẻ Hoàng Xuân Sính được cậu ruột đón sang Pháp học tiếp. Theo mong muốn của gia đình, cô chọn khoa toán thay vì ngành sở trường - ngôn ngữ. Bởi: “Cha mẹ nói rằng nếu sau này muốn quay về xây dựng đất nước, thì phải học toán và tôi đã nghe theo. Có lẽ là toán học đã chọn tôi”.

Luận án trong bom đạn

Thành công đến với cô khi 26 tuổi, trở thành một trong số ít người đậu bằng thạc sĩ toán học tại Đại học Toulouse - cấp học khó mà bấy giờ nhiều người “học đến bạc đầu” chưa xong. Nhưng điều khiến mọi người kinh ngạc hơn cả là quyết định của cô: 3 tháng sau khi nhận bằng, không đắn đo suy nghĩ, cô bỏ lại “nước Pháp phồn hoa với nhiều hoài bão” để trở về Việt Nam. Bởi cô nghĩ rằng: “Những lúc Tổ quốc gian khó nhất, là những khi nhân dân cần chúng ta nhất. Tôi biết, trở về chính là yêu nước”.

Giáo sư Hoàng Xuân Sính - ẢNH: Anh Ngọc
Giáo sư Hoàng Xuân Sính - Ảnh: Anh Ngọc

Về nước năm 1960, cô được chọn giảng dạy tại 1 trong 3 trường đại học: Sư phạm, Tổng hợp hoặc Bách khoa. Cô đã chọn Trường đại học Sư phạm Hà Nội, dù trường cách nhà 10km. Hằng ngày, cô dậy từ sáng sớm, đạp xe đi - về 20km. Có ngày quãng đường dài gấp đôi khi có thêm cuộc họp đến 10g đêm. Lớp học chỉ là nhà tranh vách đất, bắt đầu từ 6g30 trong ánh đèn le lói. Sinh viên đến lớp mùa đông với đôi chân trần, không áo ấm. Thư viện gần như trống trơn, không sách vở, không tài liệu, tất cả đều do các thầy cô tự ghi chép.

Giáo sư Hoàng Xuân Sính chia sẻ: “Nghĩ lại những năm tháng đời sống sư phạm khó khăn, tôi thấy lúc đó mình còn trẻ, nhiệt huyết, nên không sốc khi thực tế khác xa với hình dung. Giáo viên chúng tôi không kêu ca, vì cùng chung suy nghĩ xây dựng để ngày mai Tổ quốc tốt đẹp hơn”.

Cơ hội đến với cô giáo Hoàng Xuân Sính năm 1967, khi giáo sư Pháp Alexandre Grothendieck - người vừa giành giải thưởng Fields danh giá - sang Việt Nam giảng bài, như một cách phản đối chiến tranh. Cô đánh bạo xin ông hướng dẫn làm luận án tiến sĩ và được nhận lời. Thế là trong suốt 5 năm, từ 1967-1972, cô và thầy hướng dẫn trao đổi qua thư từ - mỗi lần phải mất 8 tháng mới chuyển được đến nơi. Thầy gửi đề tài và dàn ý, cô nghiên cứu, viết thư báo cáo tiến độ.

Những năm tháng ấy, bà vừa dạy học vừa làm luận án trong điều kiện khắc nghiệt nhất. Bà kể: “Thời bấy giờ, chưa có chế độ cán bộ được nghỉ hay bớt giờ dạy để làm nghiên cứu, thậm chí phải dạy nhiều giờ hơn do có nhiều bằng cấp. Vì vậy, ngày đi dạy học, tối về mới làm luận án”. Không chỉ vậy, việc đi dạy còn phải đảm bảo an toàn cho sinh viên giữa bom đạn. Lúc nào cũng phải dỏng tai nghe tiếng máy bay để đưa sinh viên xuống hào giao thông tránh trú. Tối về làm luận án từ 20 - 21g đến 24g đêm trong căn nhà tranh vách đất, nền ẩm ướt, và “muỗi nhiều khủng khiếp”. Chiếc đèn dầu leo lét, vẫn phải che chắn sao cho máy bay phía trên không phát hiện. “5 năm như vậy mà ước mơ chỉ đơn giản là ngày không nghe thấy tiếng máy bay, đêm không có muỗi hoặc có chiếc đèn pin để được đọc sách trên giường cho đỡ muỗi” - bà nói.

Năm 1972, khi máy bay B-52 ném bom xuống Hà Nội, bà vẫn ngồi làm việc vì “chỉ tối mới có thời gian cho nghiên cứu”. Khi chiến dịch Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không giành thắng lợi cũng là lúc bà hoàn thành luận án. Đến năm 1973, luận án viết tay dài 200 trang bằng tiếng Pháp “Gr-Catégories” được gửi đến Pháp. Nhưng phải đến năm 1975, bà mới được sang Pháp bảo vệ luận án.

Đặt viên gạch đầu tiên cho mô hình đại học ngoài công lập

Công trình “Gr-Catégories” không chỉ là một đóng góp mới mẻ cho lý thuyết phạm trù - lĩnh vực nền tảng của toán học hiện đại - mà còn được xem là một trong những nghiên cứu đầu tiên từ Việt Nam được cộng đồng toán học quốc tế công nhận.

Tháng 5/1975, tại Trường đại học Paris 7 (nay là Trường đại học Paris Diderot), bà bảo vệ thành công luận án tiến sĩ viết tay duy nhất được chấp nhận tại Pháp. Bà nhớ lại: “Đó là ngày vinh quang và hạnh phúc nhất trong cuộc đời tôi”. Nhưng bà nghĩ: “Việc nghiên cứu của mình chẳng là gì so với sự anh dũng của các giảng viên, sinh viên thời đó - những người cầm súng trường, nằm trên mái nhà bắn máy bay giặc”.
Sau khi trở về và làm Trưởng bộ môn toán, Trường đại học Sư phạm Hà Nội, bà dốc sức đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ. Bất ngờ, năm 1988, bà nhận được thư từ giáo sư Bùi Trọng Liễu mời cùng thành lập trường đại học dân lập.

Giáo sư Hoàng Xuân Sính - giáo sư toán học đầu tiên của Việt Nam - trên trang bìa Báo Phụ nữ Việt Nam năm 1981 - Ảnh tư liệu do nhân vật cung cấp
Giáo sư Hoàng Xuân Sính - giáo sư toán học đầu tiên của Việt Nam - trên trang bìa Báo Phụ nữ Việt Nam năm 1981 - Ảnh tư liệu do nhân vật cung cấp

Trong khi các đồng nghiệp còn băn khoăn, bà quyết định “liều” viết thư xin mở trường. Bộ Đại học (trước đây) không trả lời, bà lại “liều” đến gặp Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh và được ông đồng ý. Ngày 15/12/1988, tiến sĩ Hoàng Xuân Sính nhận được giấy phép thành lập Trung tâm đại học dân lập Thăng Long (nay là Trường đại học Thăng Long).

Thời gian đầu, trường hoạt động nhờ tài chính cá nhân và tiền quyên góp từ Pháp. Bà tính toán kỹ lưỡng: “Sinh viên hệ B (trúng tuyển nhưng có điểm thấp hơn so với sinh viên hệ A - chính quy và phải đóng học phí cao hơn) đóng học phí tương đương 9kg gạo, vậy trường của tôi lấy 10kg gạo để không quá chênh lệch”.

Sau 3 năm, bạn bè ở Pháp không còn đủ sức hỗ trợ, không nản lòng, bà sang Paris kêu gọi quyên góp. Bà kể: “Vừa đói vừa mệt, mặt mũi bơ phờ nhưng tôi không cho phép mình dừng lại. Bởi nếu đóng cửa trường học, sinh viên sẽ đi về đâu? Tôi phải có trách nhiệm, mà phụ huynh cũng bắt tôi chịu trách nhiệm”. Rồi trường phải thuê và chuyển địa điểm liên tục. Có khi ngôi trường nhỏ bé, lụp xụp phải ở trong những con ngõ mà 2 người đi xe máy không vừa.

“Bây giờ, nhiều lúc nhìn ngôi trường khang trang mà nghĩ lại, không hiểu sao ngày xưa tôi lại tự tin mở trường đến thế. Tôi sống được, chắc là nhờ tự tin” - bà mỉm cười nhớ lại.

Trường đại học Thăng Long hôm nay đã trở thành biểu tượng cho một mô hình giáo dục tiên phong. Mỗi lần nhắc lại, người ta nhớ đến hình ảnh người phụ nữ với ánh mắt kiên nghị, đã biến điều tưởng như “liều lĩnh” thành một phần không thể thiếu trong hệ thống giáo dục của đất nước.

Ở tuổi 92, nhìn lại cuộc đời - giáo sư Hoàng Xuân Sính không chỉ là hình mẫu về người phụ nữ với ý chí kiên cường, lòng yêu nước sâu sắc mà còn là biểu tượng của tầm nhìn vượt thời đại, dám nghĩ, dám làm và không ngừng cống hiến cho sự nghiệp giáo dục của đất nước.

Giáo sư, tiến sĩ, Nhà giáo nhân dân Hoàng Xuân Sính sinh năm 1933 tại Làng Cót, phường Yên Hòa, TP Hà Nội.

Bà là đại biểu Quốc hội khóa VII (2004), Phó chủ tịch Đoàn chủ tịch MTTQ Việt Nam khóa VI (2004), ủy viên Hội đồng Chính sách khoa học và công nghệ quốc gia, ủy viên Hội đồng Giáo dục quốc gia, ủy viên Hội đồng Biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam. Bà cũng là tác giả biên soạn sách Đại số đại cương giảng dạy trong các trường đại học…

Ngày 29/4/1980, Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký quyết định công nhận chức vụ khoa học giáo sư cho 83 cán bộ và 347 phó giáo sư làm công tác giảng dạy đại học và nghiên cứu khoa học. Trong đó có nữ giáo sư toán học đầu tiên của Việt Nam là bà Hoàng Xuân Sính ở lĩnh vực đại số. Bà vừa là nữ tiến sĩ, vừa là nữ giáo sư toán học đầu tiên ở Việt Nam.

Ngọc Minh Tâm

Kỳ tới: Hành trình theo đuổi vắc-xin “Made in Vietnam” của nữ tiến sĩ trẻ

 

news_is_not_ads=
TIN MỚI