Sáng 14/8, trong một góc nhỏ của phòng thí nghiệm Trường đại học Quốc tế (Đại học Quốc gia TPHCM), phó giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Thị Thu Hoài (44 tuổi) cùng nhóm sinh viên ngành công nghệ sinh học vừa đo các thông số kỹ thuật, vừa phân tích hợp chất kháng khuẩn mới trong quá trình nghiên cứu vi khuẩn kháng thuốc.
Sinh viên liên tục đưa ra thắc mắc về thành phần của các hợp chất, còn nữ giảng viên vừa lắng nghe, vừa đưa ra các hướng giải quyết những khó khăn các em đang gặp phải. “Đây là công việc hằng ngày của mình. Hè nên số lượng sinh viên đã giảm, còn vào năm học thì tất bật với các em và phòng thí nghiệm từ sáng đến tối” - cô Nguyễn Thị Thu Hoài nói.
Nhận bằng tiến sĩ năm 27 tuổi
Vất vả, khối lượng công việc nhiều, nhưng cô cho biết, được đi dạy, được làm nghiên cứu là hạnh phúc. Ước mơ làm bác sĩ ngoại thần kinh từ bé, cô là học sinh chuyên sinh Trường THPT chuyên Nguyễn Trãi (tỉnh Hải Dương trước đây), và từng đoạt giải Ba học sinh giỏi quốc gia lớp Mười một, giải Nhì quốc gia năm lớp Mười hai và từng là 1 trong 4 học sinh dự thi Olympic sinh học quốc tế. Thế nhưng, khi tốt nghiệp THPT, cô lại chọn chuyên ngành hóa sinh vì yêu thích môn miễn dịch học. Thu Hoài được tuyển thẳng vào chương trình cử nhân khoa học tài năng Trường đại học Khoa học tự nhiên (Đại học Quốc gia Hà Nội).
 |
Phó giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Thị Thu Hoài làm việc tại phòng thí nghiệm |
Sau khi tốt nghiệp đại học với thành tích ấn tượng, cô là một trong những cử nhân ưu tú được chọn du học, học thẳng lên tiến sĩ tại Đức theo đề án 322 (đào tạo cán bộ tại các cơ sở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước).
Năm 2008, cô được cấp bằng tiến sĩ chuyên ngành sinh y học của Đại học Greifswald (Đức) khi mới 27 tuổi. Trở về Việt Nam, Thu Hoài quay lại phòng thí nghiệm y sinh của Trường đại học Khoa học tự nhiên Hà Nội. Sau đó, cô tới Viện Sức khỏe Đài Loan (Trung Quốc) học hỏi một thời gian rồi đến Bỉ 2 năm tiếp tục nghiên cứu chuyên sâu.
Sau nhiều năm học hỏi ở môi trường quốc tế, năm 2011, nữ tiến sĩ quyết định dừng chân ở Khoa Công nghệ sinh học, Trường đại học Quốc tế đến nay. Hiện cô là Phó giám đốc Trung tâm Nghiên cứu bệnh truyền nhiễm của trường và tiếp tục theo đuổi hướng nghiên cứu về cơ chế kháng thuốc, độc lực vi khuẩn; hợp chất kháng khuẩn; ung thư và hệ miễn dịch…'
Nói về hướng nghiên cứu, cô cho biết tình trạng kháng kháng sinh ở bệnh nhân đã trở nên phổ biến trong những năm gần đây. Đây là vấn đề y tế nghiêm trọng, tác động lớn đến hiệu quả điều trị và tỉ lệ sống sót, làm gia tăng chi phí chăm sóc sức khỏe, gánh nặng xã hội. Cô xác định, việc nghiên cứu hướng đến phát triển các xét nghiệm mới để phát hiện nhanh sự hiện diện của các gen kháng kháng sinh.
Theo cô, một trong những giải pháp giúp kéo giảm kháng kháng sinh là phát triển các phương pháp chẩn đoán nhanh, kịp thời, chính xác để hỗ trợ việc đưa ra phác đồ điều trị hiệu quả. Từ đó, hỗ trợ tốt hơn cho các y, bác sĩ trong chẩn đoán kháng thuốc và gợi ý sử dụng thuốc phù hợp, điều trị nhanh khỏi cho bệnh nhân. Ngoài ra, cần có biện pháp cách ly, giảm lây lan các chủng đa kháng, toàn kháng.
Tìm cách phát hiện sớm loại gen kháng kháng sinh
Cô Thu Hoài cho biết thêm, hơn 10 năm trước, việc nghiên cứu về các hợp chất dùng trong điều trị bệnh truyền nhiễm ở Việt Nam còn hạn chế. Ngay cả nhiều bệnh viện lớn cũng chưa có phòng an toàn sinh học cấp 2 (phòng thí nghiệm được thiết kế để làm việc với các tác nhân sinh học có mức nguy hiểm trung bình). Cô là một trong những nhà khoa học hiếm hoi chọn theo mảng này bởi môi trường, điều kiện cũng như chính sách đầu tư cho nghiên cứu chưa nhiều. Cô bắt đầu với những chủng vi rút an toàn cho con đường nghiên cứu của mình.
 |
Phó giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Thị Thu Hoài (giữa) hướng dẫn sinh viên nghiên cứu khoa học |
Sau này, khi đại dịch COVID-19 xảy ra, hướng nghiên cứu về hệ miễn dịch, bệnh truyền nhiễm được giới nghiên cứu chú trọng và được đầu tư nhiều hơn. Cô cũng có điều kiện mở rộng các chủng vi rút để nghiên cứu chuyên sâu.
“Bản thân mong muốn đào sâu hiểu biết khoa học và đóng góp vào việc phát triển các phương pháp chẩn đoán chính xác, dễ tiếp cận hơn cũng như các phương pháp điều trị hiệu quả hơn. Một động lực lớn khác là vai trò cố vấn cho thế hệ nhà khoa học trẻ - chứng kiến các bạn sinh viên trưởng thành, tự tin hơn và đóng góp ý nghĩa cho lĩnh vực này là một trong những phần việc mang lại nhiều cảm xúc nhất” - cô nói.
Cô Thu Hoài là tác giả và đồng tác giả của 72 bài báo khoa học. Đặc biệt, với nghiên cứu “Phát triển quy trình phát hiện gen kháng kháng sinh (ARG) của trực khuẩn mủ xanh Pseudomonas aeruginosa (P.a) trực tiếp từ các mẫu lâm sàng bằng kỹ thuật PCR giọt kỹ thuật số” năm 2023, cô đoạt giải thưởng danh giá L’Oréal - UNESCO - trao cho các nhà khoa học nữ xuất sắc.
P.a là loại vi khuẩn gây ra nhiều bệnh nhiễm trùng, là nguyên nhân số 1 gây ra viêm phổi và suy hô hấp. P.a còn là 1 trong 6 nhóm, loài trong danh sách ESKAPE của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) có thể đe dọa nghiêm trọng sức khỏe cộng đồng do khả năng đa kháng thuốc. Khả năng này đến từ nhiều gen khác nhau, trong đó một số có tính quyết định nổi trội tới việc kháng những loại thuốc quan trọng trong điều trị. Nghiên cứu của cô áp dụng PCR giọt kỹ thuật số, là công nghệ khuếch đại a xít nucleic mới được phát triển. Đây là công nghệ có độ nhạy, chính xác, tái lập cao; có khả năng định lượng ngay cả ở nồng độ rất thấp và hoạt động tốt với các mẫu bệnh phẩm.
Đạt nhiều thành tựu trong nghiên cứu khoa học, cô cho biết, bản thân may mắn khi có gia đình ủng hộ. Cô cho rằng: “Nam hay nữ đều có những tài năng, ưu thế riêng. Với nữ thì tinh thần dẻo dai, bền bỉ, cần cù, sáng tạo, không ngại khó là lợi thế rất lớn. Nhưng trở ngại lớn nhất của nhà khoa học nữ là việc cân bằng giữa gia đình và công việc nghiên cứu. Bởi sau khi lập gia đình, có con, phụ nữ sẽ ngại bước ra khỏi vùng an toàn, nên tài năng và những lợi thế của phụ nữ không phát huy được hết.
Con đường nghiên cứu lại vốn chẳng bằng phẳng, có thể 1.000 nghiên cứu mới có 1 công trình đến được thực tiễn. Nhưng chúng ta không vì thế mà nản lòng, phải mạnh mẽ bước ra khỏi vùng an toàn để có những mảnh đất mới phát triển hướng đi của mình”.
Để sản phẩm từ phòng nghiên cứu ra tới ứng dụng cần một hành trình dài nhiều khó khăn. Nhà khoa học cần nguồn đầu tư lớn để hiện đại hóa phòng thí nghiệm và có chi phí thực hiện đề tài. Cô mong sẽ có chính sách hỗ trợ tốt hơn nữa để nhà khoa học nói chung và nhà khoa học nữ nói riêng có thể phát huy hết được khả năng của mình.
Tham gia mạng lưới nhà khoa học quốc tế Tháng 7/2025, cô Nguyễn Thị Thu Hoài đã tham gia Chương trình học giả thỉnh giảng quốc tế của Viện Khoa học sinh học định lượng, Đại học California (Mỹ) nhằm thúc đẩy hợp tác nghiên cứu khoa học trên toàn cầu. Cô cho biết, việc kết nối toàn cầu sẽ cho phép cô kết hợp nhiều góc nhìn, chuyên môn và nguồn lực để giải quyết những thách thức mà không một tổ chức hay quốc gia nào có thể giải quyết một mình, đặc biệt trong lĩnh vực bệnh truyền nhiễm. Tham gia mạng lưới này, cô dự định duy trì sự gắn kết thông qua các đề xuất tài trợ chung, các dự án nghiên cứu hợp tác, các cuộc họp và hội thảo trực tuyến. Cô cũng hy vọng khởi xướng chương trình trao đổi sinh viên, nhà khoa học, tiếp tục tham gia các hội nghị và chuyến thăm để giữ quan hệ hợp tác. |
Nguyễn Loan
Kỳ tới: Từ bất lực trước bệnh tật đến niềm đam mê nghiên cứu khoa học