LTS: Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia tạo động lực bứt phá mạnh mẽ cho các nhà khoa học, trong đó có nhà khoa học nữ. Báo Phụ nữ TPHCM tổ chức loạt bài: “Dấu ấn trí tuệ của nhà khoa học nữ Việt Nam và khát vọng bứt phá trong kỷ nguyên mới” nhằm tôn vinh những đóng góp nổi bật của nhiều nhà khoa học nữ trên mọi lĩnh vực trải dài từ đầu thế kỷ XX đến nay. Qua đó khẳng định vai trò, vị thế và tiềm năng của đội ngũ nhà khoa học nữ; cũng như khơi dậy và lan tỏa cảm hứng sáng tạo, đổi mới trong nghiên cứu khoa học của nữ trí thức trong bối cảnh hội nhập và cạnh tranh toàn cầu. Bài 1: Nữ bác sĩ đầu tiên của Việt Nam - Cuộc đời tận hiến cho y học
Bài 2: Nữ tiến sĩ toán học Việt Nam đầu tiên và luận án trong mưa bom B-52 |
Gần 15 năm trước, sau khi tốt nghiệp ngành sư phạm hóa học, cô Nguyễn Thị Trúc Ly trở thành giáo viên dạy hóa học tại một trường THPT ở quê nhà Quảng Ngãi. Với khát khao tiếp tục học lên, cô tự mày mò học tiếng Anh rồi lần lượt học lên thạc sĩ chuyên ngành hóa học tại Đại học nữ sinh Sookmyung (Seoul, Hàn Quốc), sau đó là tiến sĩ chuyên ngành điều hòa sinh học tại Đại học Quốc gia Seoul.
Mong muốn Việt Nam làm chủ công nghệ vắc xin
10 năm học tập, làm việc và nghiên cứu tại Hàn Quốc, cô được làm việc trong các phòng thí nghiệm hiện đại, tiếp cận kỹ thuật tiên tiến, tham gia các dự án hợp tác quốc tế. Đồng thời học được tinh thần kỷ luật, sự kiên trì và nghiêm túc trong khoa học của đồng nghiệp quốc tế. Cô ấp ủ mang mô hình phòng thí nghiệm này về nước để Việt hóa, hướng đến giải quyết các vấn đề khoa học sức khỏe tại Việt Nam.
 |
Cô Nguyễn Thị Trúc Ly trong ngày tốt nghiệp tiến sĩ ở Đại học Quốc gia Seoul tháng 2/2025 - Ảnh do nhân vật cung cấp |
Với giấc mơ đó, sau khi hoàn tất nghiên cứu sinh, có nhiều cơ hội làm việc ở nước ngoài nhưng cô quyết định về nước theo chương trình tuyển dụng nhà khoa học trẻ của Đại học Quốc gia TPHCM hồi tháng 3/2025. Đây là chương trình nhằm thu hút nhân tài, dành cho các ứng viên có thành tích cao trong nghiên cứu và có hướng nghiên cứu mới, triển vọng. Các nhà khoa học trẻ được cấp kinh phí tối đa lên tới 10 tỉ đồng để thực hiện nghiên cứu, đầu tư phòng thí nghiệm.
Sau khi trúng tuyển, cô giảng dạy tại bộ môn sinh hóa - miễn dịch học của Khoa Y, Trường đại học Khoa học Sức khỏe (Đại học Quốc gia TPHCM) và tiếp tục nghiên cứu, hướng dẫn sinh viên nghiên cứu.
Định hướng nghiên cứu của cô là tin học miễn dịch, hóa sinh tính toán, liệu pháp miễn dịch, y học cá nhân hóa, phát triển vắc xin, thuốc cho các bệnh truyền nhiễm và ung thư… Cô là tác giả chính của 10 công trình nghiên cứu trên các tạp chí khoa học quốc tế uy tín thuộc danh mục WoS và Scopus.
Các công trình của cô tập trung vào thiết kế vắc xin cho bệnh truyền nhiễm và ung thư. Nữ tiến sĩ chia sẻ: “Mục tiêu lớn nhất của tôi là đóng góp vào việc xây dựng nền tảng công nghệ vắc xin “Made in Vietnam”, không chỉ để phòng ngừa các bệnh truyền nhiễm mới nổi, mà còn mở ra cơ hội điều trị cá thể hóa cho bệnh nhân ung thư. Tôi mong muốn Việt Nam có thể làm chủ toàn bộ chu trình, từ phát hiện kháng nguyên đích đến thiết kế - đánh giá lâm sàng - sản xuất vắc xin và liệu pháp miễn dịch, thay vì phải phụ thuộc hoàn toàn vào công nghệ nước ngoài”.
Tuổi trẻ theo đuổi nghiên cứu khoa học, cô Nguyễn Thị Trúc Ly cho biết, đã trải qua rất nhiều cung bậc cảm xúc. Đó là những đêm đông ở Seoul (Hàn Quốc), khi phòng thí nghiệm chỉ còn lại ánh sáng của màn hình máy tính và tiếng máy mô phỏng chạy không ngừng. Cô vừa phân tích dữ liệu, vừa tranh thủ gọi điện về nhà để nghe giọng nói cha mẹ, chỉ để lấy thêm một chút động lực tiếp tục công việc. Đôi khi, kết quả dự đoán, thiết kế hay mô phỏng không như mong muốn lại phải bắt đầu lại từ đầu.
“Lúc đó, cảm xúc chùng xuống, tâm trạng rất tệ, nhưng rồi tôi lại tự nhủ làm khoa học là vậy, thất bại không phải dấu chấm hết, mà là bước đệm để mình tiến xa hơn. Biết là nhiều khó khăn nhưng với tôi nghiên cứu khoa học không chỉ là công việc, mà là một hành trình dài khi được sống với đam mê. Và tôi hiểu rằng, nếu không có niềm đam mê, cùng niềm tin rằng khoa học có thể tạo ra thay đổi tích cực cho cuộc sống và đóng góp thiết thực cho sự phát triển của đất nước, tôi đã không thể đi được đến hôm nay” - cô bộc bạch.
Tuổi trẻ miệt mài nghiên cứu
Về nước, cô Nguyễn Thị Trúc Ly cùng nhóm nghiên cứu tập trung nghiên cứu vắc xin ung thư phổi và ung thư phổi không hút thuốc (LCINS) - một bệnh lý ngày càng gia tăng ở các quốc gia châu Á, có liên quan mật thiết đến yếu tố môi trường, ô nhiễm không khí. Hiện nhóm nghiên cứu đã hoàn thành giai đoạn sàng lọc và đánh giá các kháng nguyên liên quan đến khối u. Từ hàng ngàn ứng viên ban đầu, họ đã chọn lọc được một nhóm kháng nguyên tiềm năng, đáp ứng các tiêu chí và đang triển khai giai đoạn thiết kế và tối ưu hóa cấu trúc vắc xin, trước khi tổng hợp và đánh giá, thử nghiệm tiền lâm sàng.
 |
Tiến sĩ Nguyễn Thị Trúc Ly tại Không gian văn hóa Hồ Chí Minh Trường đại học Khoa học Sức khỏe (Đại học Quốc gia TPHCM) - ẢNH: N.L. |
Mong mỏi lớn nhất của cô là kết quả nghiên cứu không chỉ dừng lại ở các bài báo quốc tế hay báo cáo khoa học, mà thật sự đi vào thực tiễn điều trị, mang lại lợi ích cho bệnh nhân Việt Nam và đóng góp cho cộng đồng y khoa toàn cầu.
Nữ tiến sĩ đánh giá, đây là lĩnh vực nghiên cứu phức tạp, đòi hỏi sự kết hợp giữa nhiều ngành khoa học khác nhau. Với ung thư, điều này càng khó khăn hơn bởi khối u có tính dị hợp rất cao và liên tục biến đổi, khiến việc tìm ra mục tiêu điều trị ổn định, hiệu quả là một thách thức lớn. Ngoài ra, trong nghiên cứu vắc xin, mỗi giai đoạn đều có những yêu cầu khắt khe và cần rất nhiều chu trình thử nghiệm khác nhau.
Để thực hiện trọn vẹn chu trình này, cần có nguồn dữ liệu lớn, cơ sở vật chất hiện đại và sự phối hợp liên ngành chặt chẽ - những yếu tố mà tại Việt Nam vẫn còn hạn chế. Cô hy vọng, các chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài, và sự hỗ trợ từ các quỹ nghiên cứu trong nước sẽ tạo điều kiện để cô và đồng nghiệp có cơ hội phát triển khả năng của mình.
Suốt hành trình làm khoa học, cô cho biết, tình yêu và sự ủng hộ của gia đình, bạn bè, đồng nghiệp là động lực để vượt qua những khó khăn. Đặc biệt, mỗi thành công nhỏ trong nghiên cứu - từ việc tìm ra một kháng nguyên tiềm năng, mô phỏng thành công cấu trúc vắc xin, cho đến khi bài báo được chấp nhận - đều trở thành “trái ngọt” xứng đáng cho những nỗ lực đã bỏ ra.
Khó khăn lớn nhất mà cô gặp phải là khoảng cách giữa nghiên cứu tính toán và ứng dụng lâm sàng. Kết quả từ mô hình trong phòng thí nghiệm rất tiềm năng, nhưng để chuyển thành sản phẩm y học thực tế, cần nhiều bước xác nhận bằng thực nghiệm, vốn đòi hỏi kinh phí, trang thiết bị và nhân lực.
Cô tìm cách xây dựng mạng lưới hợp tác quốc tế để bù đắp cho những thiếu hụt này, đồng thời kiên trì khai thác các nguồn học bổng và quỹ nghiên cứu các cấp để duy trì dự án. Bên cạnh khó khăn kỹ thuật, còn có những thách thức về thời gian và áp lực công bố quốc tế. Có những giai đoạn cô phải làm việc gần như suốt ngày đêm, từ phân tích dữ liệu, đến thiết kế thí nghiệm và viết bài báo, viết thuyết minh đề án…
“Chính những thử thách này lại là động lực để tôi không ngừng tiến bộ. Hạnh phúc nhất của tôi khi theo đuổi nghiên cứu là những giây phút vỡ òa khi tìm ra một kháng nguyên tiềm năng, hay mô phỏng thành công một cấu trúc vắc xin ổn định. Tôi tin rằng, nếu kiên trì theo đuổi, Việt Nam hoàn toàn có thể làm chủ công nghệ vắc xin và liệu pháp miễn dịch cá thể hóa, mở ra cơ hội điều trị tốt hơn cho bệnh nhân ung thư và phòng ngừa hiệu quả các bệnh truyền nhiễm mới nổi” - nữ tiến sĩ trẻ bày tỏ.
Tiến sĩ Nguyễn Thị Trúc Ly là nhà khoa học trẻ chuyên sâu trong lĩnh vực hóa sinh tính toán và tin sinh học miễn dịch. Cô từng nhận nhiều học bổng danh giá như: học bổng của Đại học Quốc gia Seoul (2022), học bổng Brain Korea 21 Four (2022), học bổng sau đại học dành cho sinh viên quốc tế xuất sắc - GSFS (2021-2022), học bổng toàn cầu của Đại học Quốc gia Seoul (2020), học bổng toàn phần Sookmyung Global Scholarship và Brain Korea 21 (BK21) cho chương trình thạc sĩ tại Đại học nữ sinh Sookmyung, Hàn Quốc… |
Nguyễn Loan
Kỳ tới: Dành cả thanh xuân tìm cách phát hiện sớm gen kháng kháng sinh