Từ chiến thắng Khe Sanh…
Ông Nguyễn Văn Hợi nguyên là Trợ lý quân lực của Bộ Tư lệnh Mặt trận B5. Từ năm 1968 đến 1973, ông làm văn thư quân lực của tiểu đoàn K3 - Tam Đảo, trung đoàn 246, sư đoàn 346, thuộc lực lượng bộ đội địa phương tỉnh Quảng Trị. Đơn vị ông từng 2 lần làm nên vinh quang: giành thắng lợi trong chiến dịch đường 9 - Khe Sanh và giành được 500m2 Thành cổ Quảng Trị sau 81 ngày đêm chiến đấu.
Ngày đến Khe Sanh, ông Hợi tròn 20 tuổi. Hồi đó, số người được học hết lớp Mười (hệ 10 năm) như ông rất ít nên ông được giao phụ trách công tác văn thư của tiểu đoàn. Ham mê chữ nghĩa nên mỗi khi viết báo cáo xong, ông lén ghi vài dòng nhật ký vào cuốn sổ riêng. Ông cẩn thận ghi lại những chi tiết nhỏ nhất để khi hòa bình, nếu may mắn còn sống thì sẽ cùng đồng đội ôn lại kỷ niệm xưa.
 |
Ông Hợi không cầm được nước mắt khi nhắc đến hơn 1.000 đồng đội đã nằm lại Thành cổ Quảng Trị |
Nhật ký của ông còn lưu: “Ngày 1/6/1968. Hôm nay là một ngày đáng nhớ, bởi đây là ngày hành quân cuối cùng trên trạm giao liên để đến địa điểm chiến đấu. Đường đi hôm nay dốc liên tục, trời lại lúc nắng, lúc mưa, oi bức vô cùng. Mình đi sau đội hình nên phải chạy nhiều, gần đến đích thì phải vượt qua một cái dốc rất cao, may mà lúc này trời có mưa nhỏ nên không khí đỡ oi bức. 12g trưa thì đến, đây là Binh trạm 15”…
Dưới đây cũng là một đoạn trong cuốn nhật ký: “Những cái tên Tà Cơn, Làng Vây, Khe Sanh và bao cái tên khác của miền Tây Quảng Trị, cách đây vài tháng thôi còn có vẻ xa lạ, khiến chúng tôi ước ao sớm được đến với nó. Giờ đây, ước mơ đó đã thành sự thật. Tôi đã trở thành một chiến sĩ giải phóng quân đang ngày đêm cùng đơn vị vây ép quân Mỹ ở cao điểm 689. Bom đạn L19, VO10 và B52 đối với chúng tôi bây giờ quen thuộc lắm rồi. Những tối lên chốt cùng đại đội trưởng, nghe tiếng cắt gió của đạn cối, đạn pháo, không còn bị hoảng loạn như những ngày đầu. Những lúc như thế, cảm thấy mình lớn lên nhiều. Đêm cuối tháng ngồi bên sườn hố bom Mỹ trên đỉnh 622, đếm sao rơi và quan sát động tĩnh của lính Mỹ trên cao điểm 689, nghe gió nồm nam thổi, bỗng thấy xôn xao”…
Ngày vào trận chiến Khe Sanh, đại đội 10 của ông có 135 người, sau hơn 1 tháng, chỉ còn 47 người sống sót. Chính trị viên Lưu Văn Dụ bị giập nát 2 chân nhưng vẫn lết đến bên xác lính Mỹ tìm lựu đạn, đưa cho đồng đội tiếp tục chiến đấu. Một quả đạn cối nổ ngay bên cạnh khiến ông Hợi bị thương ở đầu và mặt.
… Đến lời thề giữ Thành cổ Quảng Trị
Nhật ký ông Nguyễn Văn Hợi có đoạn: “Ngày 9/7/1972. Sáng nay, Tư lệnh Lê Trọng Tấn cùng tham mưu trưởng mặt trận xuống trao nhiệm vụ chiến đấu cho tiểu đoàn. Tiểu đoàn K3 - Tam Đảo của chúng tôi bây giờ là quân của Tỉnh đội Quảng Trị. Sáng mai, cả tiểu đoàn sẽ sang sông, chốt giữ bên trong Thành cổ. Ban chỉ huy tiểu đoàn có Tiểu đoàn trưởng Đỗ Văn Mến, Chính trị viên Nguyễn Hữu Đoài, Tiểu đoàn phó Mai Văn Đề, đồng chí Canh - Trợ lý tham mưu, Chính trị viên phó Lê Binh Chủng. Cán bộ tham mưu có tôi là trợ lý quân lực, Đoàn Quốc An là trợ lý chính trị. Tất cả chúng tôi đứng nghiêm nhận lệnh. Đồng chí tiểu đoàn trưởng thay mặt tiểu đoàn hứa với Tư lệnh: K3 - Tam Đảo chúng tôi còn thì Thành cổ Quảng Trị còn”.
 |
Cựu binh Nguyễn Văn Hợi chào đại tá Kiều Thanh Thúy - Giám đốc sản xuất phim Mưa đỏ |
Bây giờ, tuổi đã tròm trèm tám chục, ông Hợi vẫn nhớ như in từng ngày, tháng, từng trận đánh khốc liệt. Trận đánh ngày 13/8/1972 là trận ác liệt ở Thành cổ Quảng Trị. Quân ta còn ít người nhưng phải đương đầu với 1 đại đội lính thủy đánh bộ. Giữa lằn ranh sống chết, chiến sĩ Hán Duy Long của đại đội 9 đã bình tĩnh bắn liền 9 quả B40 và 1 quả B41 về phía đội hình địch. Người này ngã xuống, người khác xông lên. Đòn phản kích bất ngờ khiến quân địch phải tháo lui khỏi Thành cổ. Ngày 16/8/1972, K3 - Tam Đảo nhận lệnh rời Thành cổ, kết thúc 81 ngày đêm trong chảo lửa bom đạn. Ông Hợi rời chiến trường với tỉ lệ thương tật 81%.
Anh thương binh hạng 1/4 Nguyễn Văn Hợi về quê Nam Định (nay là tỉnh Ninh Bình) làm việc trong nhà máy dệt. Hơn 20 năm lao động, cùng vợ nuôi 4 người con, ông Hợi vẫn không nguôi ngoai những ký ức chiến trường, nghĩa tình đồng đội. Ông cứ băn khoăn tự hỏi: “47 anh em cùng vào sinh ra tử với mình bây giờ ra sao? Ai còn sống, ai đã chết?”. Năm 1998, ông lên đường tìm đồng đội. Ông đến tỉnh Phú Thọ tìm gặp tiểu đội trưởng Nguyễn Hữu Quyền. Ông Quyền đã thành lão nông da đen nhẻm, quần xắn móng lợn đang ngồi thu dọn sắn (khoai mì).
Ông Hợi kể: “Thấy tôi giơ máy ảnh chụp, ông Quyền trừng mắt hỏi: “Anh chụp gì đấy?”. Tôi ngồi xuống nói: “Tôi chụp thằng Nguyễn Hữu Quyền tiểu đội trưởng tiểu đội 8 đấy”. Ông Quyền nhìn tôi một lát rồi reo lên: “Thằng Hợi”. 2 anh em ôm chầm lấy nhau mừng mừng, tủi tủi”.
Nốt lặng trong Mưa đỏ
Trên sân khấu của sự kiện giới thiệu phim Mưa đỏ, ông Hợi xúc động kể lại những tháng năm khốc liệt khi đơn vị ông giữ vững trận địa Thành cổ giữa mưa pháo dày đặc: “Khi chúng tôi sang sông vào Thành cổ, có 325 người. Sau đó, quân số được bổ sung gấp 4 lần. Nhưng đến khi được về Hà Nội gặp Chủ tịch nước (năm 2009), chỉ còn 39 người. Tôi là người ra sông đón tân binh. Một đêm, nhận thông báo sẽ có 70, rồi 50 tân binh được bổ sung, nhưng pháo giội suốt đêm. Đến sáng, vài chiếc áo mưa bó gói quân trang dạt vào bờ. Chúng tôi mừng rỡ định chạy ra đón thì một loạt pháo trùm lên. Trên dòng Thạch Hãn, chỉ còn tiếng gọi “mẹ ơi”, “chị ơi”… vì hầu hết anh em ra trận chưa có người yêu, vẫn đang do chị, do mẹ chăm sóc”.
Ông nói: “Tôi mới được xem vài đoạn phim thôi mà cảm xúc đã dâng trào. Hơn 1.000 liệt sĩ của tiểu đoàn chúng tôi đã được nhắc đến bằng một bộ phim chân thực. Tôi mong thế hệ trẻ hôm nay và cả những người đã có tuổi hãy nhìn thật sâu vào lịch sử để hiểu rằng, vị trí mình đang có, cuộc sống yên bình mình đang hưởng không phải từ trên trời rơi xuống”.
Với cựu binh Nguyễn Văn Hợi, lịch sử là từng gương mặt đồng đội đã hòa vào lòng đất, là tiếng gọi mẹ giữa đạn bom, là căn hầm được phục dựng bằng trí nhớ và nước mắt, là bức thư của chị Khơi mà ông từng giữ rồi trao lại cho đồng đội, để sau này trở thành hiện vật được trưng bày ở Bảo tàng Thành cổ, là cuốn nhật ký của chính ông đang được gìn giữ tại Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam.
Bây giờ, ông là Trưởng ban Liên lạc của tiểu đoàn K3 - Tam Đảo anh hùng. Dáng ông và đồng đội trầm lặng trên sân khấu giới thiệu phim Mưa đỏ. Sau lưng, phông nền là chiến trường Thành cổ, loang lổ máu trộn bùn. Vẫn đôi mắt sáng, giọng nói trầm vang, ông nói: “Hôm nay, tôi tin rằng hơn 1.000 đồng đội của tôi - những người đã nằm lại Thành cổ - chắc hẳn đang mỉm cười”. Và ông nhắn gửi với thế hệ trẻ: “Trước khi đòi hỏi đất nước cho mình cái gì, hãy nghĩ xem mình đã làm được gì cho đất nước”.
Lần theo trí nhớ, người cựu binh Nguyễn Văn Hợi đã đi khắp 14 tỉnh, thành, tìm lại được 42 đồng đội trong đại đội 10 năm xưa. Đến nay, còn 5 người nữa mà ông vẫn chưa rõ sống chết ra sao.
Uông Ngọc