Thị trường rộng mở
Từng là kỹ sư xây dựng với mức lương hơn 25 triệu đồng 1 tháng, song khi nắm bắt được nhu cầu của thị trường về thịt chồn hương, anh Vũ Văn Cử - trú xã Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An - đã nghỉ việc, đi học hỏi kinh nghiệm rồi về quê mở trang trại chăn nuôi. Từ 5 cặp chồn giống sinh sản ban đầu, đến nay anh đã nhân giống lên hơn 500 con, mang về doanh thu 2 tỉ đồng mỗi năm từ việc bán chồn giống và chồn thương phẩm.
 |
Anh Phạm Viết Phi kiểm tra đàn chồn hương mới sinh sản |
Theo anh Cử, hiện nhu cầu về chồn thương phẩm và chồn giống đều rất cao. Chồn thương phẩm dao động từ 1,5-1,9 triệu đồng 1kg và chồn giống dao động từ 10-15 triệu đồng 1 con. “Cung hầu như không đủ cầu nên người chăn nuôi cũng yên tâm, không phải lo mất giá như nuôi nhiều loài khác” - anh Cử nói.
Với nhiều ưu điểm vượt trội như dễ nuôi, không mất nhiều công chăm sóc, ít dịch bệnh, cho hiệu quả kinh tế cao, mô hình nuôi chồn hương ngày càng phát triển mạnh ở 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Anh Phạm Viết Phi - 35 tuổi, trú phường Vinh Phú, tỉnh Nghệ An - cho biết, chồn hương thuộc nhóm động vật rừng nguy cấp, quý hiếm nhóm IIB, nên người nuôi phải làm các thủ tục để lực lượng kiểm lâm cấp phép, cấp mã trại, theo dõi và cập nhật biến động về số lượng đàn vật nuôi hằng tháng. Đây là thủ tục cần thiết để người nuôi loài động vật hoang dã (ĐVHD) này có thể cung cấp thịt chồn và con giống ra thị trường một cách hợp pháp.
Sau 3 năm chuyển hướng từ nuôi gà công nghiệp sang nuôi chồn hương, anh Phi nói rằng, chồn hương ăn ít, không phải đầu tư nhiều chi phí, công chăm sóc và đặc biệt là ít gây ô nhiễm môi trường. So với gà, heo và trâu, bò, chồn thịt và chồn giống trên thị trường hiếm khi rơi vào tình trạng mất giá, khó tiêu thụ.
“Chồn hương rất dễ nuôi, ăn tạp, ít bệnh, không cần diện tích rộng và đặc biệt là không gây ô nhiễm môi trường nên có thể nuôi trong vườn nhà mà không ảnh hưởng đến xung quanh. Riêng xóm tôi hiện đã có 5 trang trại nuôi chồn. Nhiều người khác cũng đang học hỏi kinh nghiệm để chuyển từ nuôi gà, nuôi bò sang nuôi chồn” - anh Phi nói.
Nuôi ĐVHD nhằm mục đích thương mại đang dần trở thành một nghề mới ở nhiều làng quê Nghệ An, Hà Tĩnh với hàng trăm cơ sở nuôi quy mô lớn được cấp phép. Nhiều loài ĐVHD như nai, nhím, dúi, chồn hương… đã trở thành những mặt hàng có giá trị kinh tế cao, không chỉ giúp nông dân thoát nghèo bền vững mà còn góp phần không nhỏ trong việc chuyển dịch cơ cấu vật nuôi ở các địa phương.
Điển hình nhất là loài hươu sao. Từ hàng chục năm nay, hươu sao đã được người dân tỉnh Hà Tĩnh thuần hóa trở thành vật nuôi truyền thống, mang về doanh thu hàng trăm tỉ đồng mỗi năm. “Nghề nuôi hươu phát triển rất mạnh và có tiềm năng rất lớn nên tỉnh đã đề xuất đưa ra khỏi danh mục động vật rừng thành giống vật nuôi để phát triển kinh tế” - một cán bộ Phòng Pháp chế và Điều tra xử lý vi phạm, Chi cục Kiểm lâm tỉnh Hà Tĩnh nói.
Chị Nguyễn Thị Thủy - 33 tuổi, ngụ xã Quỳnh Văn, tỉnh Nghệ An - cho biết, hươu và nai dần trở nên quen thuộc với người dân làm nghề chăn nuôi. Gia đình luôn duy trì đàn nai hơn 100 con, trung bình mỗi năm chị Thủy thu về hơn 800 triệu đồng từ việc bán nhung, nai giống và thịt nai. Thức ăn chủ yếu của nai là các loại lá cây có sẵn trong vườn, nên có thể tận dụng để giảm chi phí chăn nuôi. “Nuôi nai, hươu rất nhàn nhưng lợi nhuận cao hơn nuôi dê, bò. Thị trường tiêu thụ cũng rất ổn định nên người nuôi yên tâm hơn. Ở đây đất đồi nhiều, có thể tận dụng được nguồn thức ăn có sẵn nên người dân chuyển sang nuôi nai ngày càng nhiều” - chị Thủy nói.
Cần tìm hiểu kỹ để không vi phạm pháp luật
Nuôi thương mại ĐVHD mang lại sinh kế rất tốt cho nhiều hộ dân, tiềm năng lớn nhưng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro về dịch bệnh khi chưa có vắc xin đặc trị. Theo anh Phi, khó nhất trong nuôi chồn hương là khi chúng ốm, không có thuốc điều trị. Do đó anh phải luôn đảm bảo hệ thống chuồng trại sạch sẽ, theo dõi hằng ngày để kịp thời tách những con chồn ốm ra điều trị riêng, tránh lây lan cho cả đàn.
“Nuôi chồn vẫn còn khá mới mẻ nên chúng tôi vừa nuôi vừa học hỏi kinh nghiệm. Loài này hay bị đường ruột nên ngoài vệ sinh chuồng trại thì phải chú ý thức ăn hằng ngày. Chúng ít bệnh nhưng tôi vẫn phải làm một khu chuồng riêng biệt để chăm sóc và điều trị cho những con ốm, tránh lây ra cả đàn. Mỗi con giống cả chục triệu đồng nên khi chúng ốm cũng lo, lỡ chết thì mất vốn như chơi” - anh Phi nói.
Theo Chi cục Kiểm lâm tỉnh Hà Tĩnh, tỉnh này hiện có 163 cơ sở nuôi, trồng động vật, thực vật nguy cấp, quý hiếm và 66 cơ sở nuôi động vật rừng thông thường. Việc gây nuôi ĐVHD ngày càng phát triển mạnh cả về số lượng và số loài, không chỉ tạo sinh kế, giúp nhiều gia đình đổi đời mà còn góp phần tích cực cho hoạt động bảo tồn, phát triển loài, cung cấp các sản phẩm thay thế, từ đó hạn chế tình trạng săn bắt, sử dụng ĐVHD trong tự nhiên.
Để tránh tình trạng các cơ sở lợi dụng, đưa ĐVHD săn bắt, khai thác ngoài tự nhiên nhập chuồng để hợp thức hóa, việc tăng cường quản lý, kiểm tra các cơ sở gây nuôi luôn được Chi cục Kiểm lâm tỉnh Hà Tĩnh phối hợp với các cơ quan chức năng ở các địa phương kiểm tra thường xuyên.
 |
Nghề nuôi hươu, nai ngày càng được ưa chuộng nhờ thị trường ổn định, có thể tận dụng được nguồn thức ăn có sẵn |
Mới đây, câu chuyện anh Thái Khắc Thành - 45 tuổi, trú xóm Thịnh Tâm, xã Đô Lương, tỉnh Nghệ An - bị tuyên phạt 6 năm tù về tội “vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý hiếm” khi nuôi và bán 13 con gà lôi trắng đã được dư luận bàn tán xôn xao. Ngoài chuyện mức án, cộng đồng mạng còn chia sẻ về bài học kinh nghiệm khi nuôi và mua bán các loài ĐVHD.
Ông Thái Khắc Dũng - Trưởng xóm Thịnh Tâm - nói, dân làng hầu như không ai biết đàn gà anh Thành nuôi là động vật nguy cấp, quý hiếm. “Tôi nghĩ đó cũng là một loài gà. Nếu cho tôi cũng không lấy vì nó xấu hơn gà trống ta. Tôi nghĩ cơ quan chức năng cần có thêm những buổi hội thảo, tuyên truyền phổ biến để người dân biết mà tránh vi phạm” - ông Dũng nói.
Ông Lê Đại Thắng - Phó phòng Quản lý bảo vệ rừng và bảo tồn thiên nhiên, Chi cục Kiểm lâm tỉnh Nghệ An - cho biết, tỉnh này hiện có hơn 550 cơ sở nuôi ĐVHD, chủ yếu là nai, chồn hương, dúi… Việc gây nuôi ĐVHD có tiềm năng lớn khi thị trường trong và ngoài nước đều rộng mở.
Tuy nhiên, người dân cần tìm hiểu kỹ các quy định để tránh vi phạm pháp luật. Tùy vào loài được nuôi, các cơ sở thông báo việc nuôi động vật rừng thông thường cho cơ quan có thẩm quyền; được cấp mã số cơ sở nuôi ĐVHD nguy cấp, quý, hiếm. Tất cả cơ sở nuôi thương mại ĐVHD đều phải mở sổ theo dõi hoạt động nuôi, ghi chép đầy đủ số lượng cá thể, tăng - giảm đàn để lực lượng kiểm lâm kiểm tra, đóng dấu xác nhận hằng tháng.
Một trong những yếu tố then chốt trong nuôi thương mại ĐVHD là giống nuôi phải hợp pháp. Theo ông Lê Đại Thắng, dù đã tuyên truyền từ các cuộc họp dân, phát tờ rơi, loa phát thanh… thậm chí cho người dân ký cam kết, song nhận thức của nhiều người về các loài ĐVHD vẫn còn thấp. Hoạt động kiểm tra, giám sát việc nuôi ĐVHD của lực lượng kiểm lâm cũng gặp khó khăn do lực lượng mỏng.
“Nhiều khi người dân vẫn chưa hiểu nguồn gốc hợp pháp là thế nào. Người nuôi các loài ĐVHD khi mua con giống phải chọn mua ở các cơ sở chăn nuôi sinh sản được cấp phép, có đầy đủ bảng kê lâm sản và xác nhận của kiểm lâm. Khi xuất bán con giống, các cơ sở phải có bảng kê, có xác nhận của kiểm lâm thì nó mới hợp pháp. Nếu không có đầy đủ các giấy tờ này thì ra đường vẫn bị kiểm tra, xử phạt” - ông Lê Đại Thắng nói.
Phan Ngọc