Từ mùa thu lịch sử, phụ nữ Việt Nam vươn mình kiến tạo tương lai

18/08/2025 - 06:37

PNO - Tháng Tám năm 1945, cách mạng thành công, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong mùa thu lịch sử ấy, phụ nữ Việt Nam không chỉ chờ tin chiến thắng mà còn trực tiếp tham gia giành chính quyền, nuôi giấu cán bộ, lo hậu cần cho kháng chiến.

Hành trình đi cùng đất nước

Cách mạng tháng Tám đã khởi đầu cho một cuộc giải phóng kép: giải phóng dân tộc và giải phóng phụ nữ. Đó là nhận định của nhiều đại biểu tại hội thảo khoa học quốc gia “Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9: Giá trị thời đại và sức sống trường tồn”, do Viện hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam chủ trì, phối hợp cùng Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và UBND TP Hà Nội tổ chức chiều 14/8.

Đại biểu nữ tham dự hội thảo khoa học quốc gia “Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9: Giá trị thời đại và sức sống trường tồn” - ẢNH: NHƯ DIỆP
Đại biểu nữ tham dự hội thảo khoa học quốc gia “Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9: Giá trị thời đại và sức sống trường tồn” - Ảnh: Như Diệp

Trong tham luận gửi đến hội thảo, phó giáo sư, tiến sĩ Trần Thị Minh Thi - Phó viện trưởng Viện Thông tin khoa học xã hội - phân tích, trong Hiến pháp năm 1946, quyền bình đẳng của phụ nữ được khẳng định ngắn gọn, hàm súc: “Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện”.

Theo bà Minh Thi, đây không chỉ là lời tuyên bố pháp lý mà còn là dấu mốc lịch sử đánh dấu sự thay đổi căn bản trong tư duy xã hội. Phụ nữ không chỉ là lực lượng hậu phương mà còn là công dân bình đẳng, có quyền quyết định vận mệnh của đất nước. 80 năm qua, hành trình bình đẳng giới ở Việt Nam gắn với từng bước đi của đất nước. Giai đoạn 1945-1975 là khởi nguồn tư tưởng bình đẳng, giải phóng phụ nữ. Trong đó, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1959 xóa bỏ hôn nhân sắp đặt, khẳng định hôn nhân tự nguyện, một vợ một chồng, nam nữ bình đẳng về mọi mặt.

Giai đoạn 1976-1985, bình đẳng giới gắn liền với lao động, nghĩa vụ kháng chiến và kiến quốc. Hiến pháp năm 1980 quy định rõ quyền nghỉ thai sản có lương, trách nhiệm của Nhà nước trong việc phát triển hệ thống nhà trẻ, lớp mẫu giáo. Năm 1981, Quốc hội Việt Nam ra nghị quyết phê chuẩn Công ước của Liên hiệp quốc về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ.

Giai đoạn 1986-2005, bình đẳng giới được thực thi một cách thực chất. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986, năm 2000 và Hiến pháp năm 1992 mở rộng quyền tự quyết trong sinh con, quyền lựa chọn nghề nghiệp, quyền sở hữu tài sản, bảo vệ phụ nữ khỏi mọi hình thức phân biệt và xúc phạm nhân phẩm. Trong giai đoạn này, phụ nữ tham gia mạnh mẽ vào thị trường lao động, khởi nghiệp, giữ các vị trí quản lý.

Nữ xã viên hợp tác xã chi viện lương thực cho tiền tuyến trong kháng chiến chống Mỹ  - Nguồn ảnh: Thông tấn xã Việt Nam
Nữ xã viên hợp tác xã chi viện lương thực cho tiền tuyến trong kháng chiến chống Mỹ - Nguồn ảnh: Thông tấn xã Việt Nam


Từ năm 2006 đến nay, bình đẳng giới là nền tảng phát triển bền vững. Khái niệm “bình đẳng giới” lần đầu tiên có trong Hiến pháp năm 2013. Luật Bình đẳng giới năm 2006 xác định 8 lĩnh vực ưu tiên; Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 (sửa đổi năm 2022) bảo vệ quyền của phụ nữ; Bộ luật Lao động năm 2019 cấm phân biệt đối xử; Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 thừa nhận “giá trị lao động không công”, ghi nhận đóng góp vô hình nhưng to lớn của phụ nữ… Đến nay, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu về bình đẳng giới, cao hơn mức trung bình toàn cầu và khu vực theo thống kê năm 2024.

Loại bỏ rào cản bằng tầm nhìn khai phóng

Giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Hữu Minh - nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu gia đình và giới, Chủ tịch Hội Xã hội học Việt Nam - nhận định: “Sự tham gia của phụ nữ vào bộ máy chính trị góp phần nâng cao tính đại diện, đa dạng hóa quan điểm, thúc đẩy tính minh bạch và hiệu quả trong quản lý nhà nước, đồng thời giảm nguy cơ tham nhũng”.

Nhưng ông cũng cho rằng, phụ nữ vẫn gặp nhiều rào cản khi tham gia lãnh đạo, như định kiến giới, trách nhiệm gia đình làm gián đoạn sự nghiệp, thiếu cơ chế hỗ trợ ứng cử và đào tạo cán bộ nữ. Theo ông, cần xây dựng và thực hiện các cơ chế quy hoạch, bổ nhiệm, đề bạt cán bộ nữ một cách chủ động, có chỉ tiêu cụ thể, coi bình đẳng giới là nhiệm vụ chiến lược trong toàn bộ hệ thống chính trị.
Phó giáo sư, tiến sĩ Trần Thị Minh Thi cho rằng, các chỉ số quốc tế về bình đẳng giới chưa phản ánh đầy đủ thực tế. Việc sinh đẻ và chăm sóc con cái của phụ nữ vẫn chưa được ghi nhận đúng mức trong đánh giá phát triển bền vững. Chính gánh nặng này khiến phụ nữ khó thăng tiến, ít có cơ hội được đào tạo, quy hoạch vào vị trí lãnh đạo. Định kiến giới vẫn len lỏi trong bổ nhiệm, các cơ chế hỗ trợ ứng cử, vận động bầu cử cho phụ nữ vẫn chưa đồng bộ.

Theo bà, một thách thức lớn khác là khoảng cách thu nhập. Năm 2023, chênh lệch lương giữa nam và nữ vẫn ở mức 13,9%, tăng so với năm 2022. Thu nhập của nam giới cao hơn của nữ ở mọi trình độ học vấn, bất chấp nỗ lực vươn lên của phụ nữ. Phần lớn phụ nữ vẫn làm việc ở khu vực phi chính thức, không được hưởng đầy đủ bảo hiểm và quyền lợi thai sản. Trong khi đó, có ít phụ nữ tham gia thị trường lao động kỹ thuật số hay công nghệ do thiếu điều kiện tiếp cận, bị gánh nặng gia đình cản trở. Xu hướng kết hôn muộn, sinh ít con ở đô thị cũng đặt ra nguy cơ thiếu phụ nữ trong độ tuổi sinh nở, giảm lực lượng lao động trẻ.

Để vượt qua những rào cản này, các nhà khoa học đề xuất nhiều giải pháp. Trước hết, cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách và luật pháp, mở rộng sang các lĩnh vực mới như chuyển đổi số, lao động phi chính thức, biến đổi khí hậu. Cần có cơ chế lượng hóa năng lực trong quy hoạch, bổ nhiệm để giảm định kiến chủ quan. Giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Hữu Minh đề xuất, tăng cường truyền thông để thay đổi nhận thức xã hội, coi bình đẳng giới không chỉ là mục tiêu mà còn là giá trị nền tảng. Việc quy hoạch, đào tạo, bổ nhiệm cần linh hoạt hơn cho cán bộ nữ; cần quy định tỉ lệ ứng cử viên nữ trong các cuộc bầu cử để đảm bảo tính đại diện.

Phó giáo sư, tiến sĩ Trần Thị Minh Thi khẳng định, trước những biến động mới và thách thức toàn cầu, di sản bình đẳng giới của Việt Nam tiếp tục khẳng định sức sống bền bỉ. Theo bà, để phát huy thành tựu này, cần “những cải cách can đảm, những chiến lược và chính sách đa tầng, một tầm nhìn nhân văn, khai phóng”.

“Cần mở rộng dịch vụ công chăm sóc trẻ em và người cao tuổi, khuyến khích nam giới chia sẻ việc nhà, xây dựng cơ chế làm việc linh hoạt để giúp phụ nữ cân bằng tốt hơn giữa gia đình và sự nghiệp. Để giảm “chi phí cơ hội” cho phụ nữ khi lập gia đình, cần coi sinh nở và chăm sóc con là đóng góp kinh tế”.

Giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Hữu Minh

Bước tiến dài từ mùa thu 1945

Sau Cách mạng tháng Tám, phụ nữ lần đầu tiên có quyền bầu cử, ứng cử. Từ đó đến nay, họ dần dần nắm giữ những vị trí cao trong bộ máy nhà nước và hệ thống chính trị.

Số nữ ủy viên Bộ Chính trị và ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng tăng liên tục trong 3 nhiệm kỳ gần đây; tỉ lệ nữ đại biểu Quốc hội khóa XV đạt 30,26%, tăng mạnh so với các khóa trước và đặc biệt là so với mức 2,5% của nhiệm kỳ đầu tiên (1946-1960) hay 13,5% của nhiệm kỳ II (1960-1964). Tỉ lệ nữ giữ cương vị chủ nhiệm các ủy ban của Quốc hội cũng đạt 23,8% trong khóa XV, cao hơn rõ rệt so với khóa XIII và XIV. Trong bộ máy hành pháp, số cơ quan có nữ lãnh đạo chủ chốt tăng dần, từ 43,3% năm 2017 lên 59% trong những năm 2022-2023.

Tỉ lệ nữ đại biểu Quốc hội nhiệm kỳ 2021-2026 vượt ngưỡng 30% lần đầu tiên sau 45 năm, cao hơn nhiều so với mức trung bình toàn cầu 21,8% và gấp khoảng 2,5 lần so với khu vực Đông Á - Thái Bình Dương. Thành quả này đã giúp Việt Nam nhảy từ vị trí 71 lên 51 trong bảng xếp hạng của Liên minh Nghị viện thế giới, đồng thời vươn từ vị trí thứ chín lên thứ tư ở châu Á. Không chỉ ở cấp trung ương, tỉ lệ phụ nữ tham gia cấp ủy tỉnh, xã và HĐND các cấp cũng ngày càng tăng.

Phó giáo sư, tiến sĩ Trần Thị Minh Thi


Như Diệp

 

news_is_not_ads=
TIN MỚI