Ngôi chùa 1-0-2

19/08/2025 - 07:37

PNO - 102 không phải tên gọi hay số lượng mà là cách viết số thành chữ - 102 - nghĩa là “một không hai”, độc nhất vô nhị. Chùa có tên Bửu Sơn thuộc đạo Bửu Sơn Kỳ Hương.

Tượng thú trong chùa Đất Sét
Tượng thú trong chùa Đất Sét

Bửu Sơn Tự còn gọi là chùa Đất Sét vì đất sét là nguyên liệu chính làm các pho tượng và trang trí trong chùa, toạ lạc tại đường Tôn Đức Thắng, phường Sóc Trăng, Thành phố Cần Thơ. Cả tên gọi và chất liệu chế tác đều không đụng hàng. “Chùa” do ông Ngô Kim Tây, khởi lập năm 1906, là am nhỏ bằng cây, lá; đơn sơ để tu tại gia. Ông Ngô Kim Tòng (1909 -1970), "Ngô cư sĩ học Phật tu nhơn", đời thứ tư, tôn tạo, mở rộng, kỳ công như ngày nay. Chùa rộng 371m2 trong khuôn viên 2.582m2, kiến trúc đơn giản, trệt, kiểu Nam bộ, lợp ngói.

Lục long đăng biểu tượng lục tỉnh miền Tây
Lục long đăng biểu tượng lục tỉnh miền Tây

Cổng tam quan kiên cố; chánh điện hướng Đông, có 24 cột gỗ, ốp đất sét, đắp hình rồng uốn lượn và hoa văn trang trí. Nội điện hẹp, chứa nhiều hiện vật, thoáng nhìn hơi gò bó. Ngắm kỹ, thấy sự sắp xếp hài hòa, tinh tế, sống động đến kinh ngạc. Có 1.884 tác phẩm làm từ đất sét gồm tượng Phật, Tiên, Thánh, Thần, linh thú, lư hương, vật liệu thờ cúng… Các tượng thờ có A Di Đà, Di Lặc, Quan Thế Âm, Ngọc Hoàng, Khổng Tử, Lão Tử, Diêu Trì Kim Mẫu… của “Tam giáo đồng nguyên” (Phật, Nho, Lão).

Đất sét là nguyên liệu dùng làm tượng, vật dụng thờ, trang trí; lấy từ những cánh đồng cách chùa vài cây số; gánh từng gánh về phơi khô, bỏ vào cối giã nhuyễn, lọc tạp chất, trộn mạt cưa, keo ô dước; thành hỗn hợp mịn, dẻo, có hương nhẹ, rồi dùng lưới kẽm, cây gỗ dựng sườn, vải mùng bao và đắp nguyên liệu làm tượng lên; bề ngoài phủ sơn nước kim nhũ và dầu bóng. Cả ngàn tượng lớn, nhỏ; không trùng lắp; thần sắc riêng biệt.

Đèn cầy nhỏ cháy suốt từ Rằm tháng Bảy năm 1970
Đèn cầy nhỏ cháy suốt từ Rằm tháng 7 năm 1970

Các công đoạn đều thủ công do ông Ngô Kim Tòng thực hiện ròng rã suốt 42 năm (1928 – 1970) như kỳ công của ý chí, sự kiên trì và sức mạnh tâm linh. Tới giờ, vẫn chưa có giải thích thỏa đáng. Bởi ông Tòng chỉ học hết lớp 3. Đất sét là nguyên liệu nung thành gạch, gốm, sứ gia dụng, trang trí và xây dựng. Dùng đất sét không nung làm tượng, vật dụng thờ và trang trí, trước ông Tòng, hình như chưa ai nghĩ tới?

Hiện nay, có hợp chất trộn đất sét để xây dựng, chưa thấy để điêu khắc và làm tượng, vật dụng thờ hay trang trí. Nhiều khách vào chùa cứ nghĩ rằng tượng và vật dụng bằng đồng hoặc cốt thép; liền cầm, bấm, bẻ, nhấc thử… làm hư hỏng nên trước mỗi hiện vật luôn có bảng “Tượng bằng đất, cẩn thận dễ vỡ”. Chùa tu tại gia, không có sư, không nhận tiền công đức, gia đình truyền thừa. Trước đây ông Ngô Kim Giảng (em thứ tám của ông Tòng) quản lý, hay giới thiệu bằng tiếng Pháp cho khách nước ngoài. Hiện người con thứ 6 của ông là anh Ngô Kim Quang làm Phó ban trị sự.

Chùa có nhiều kỳ quan thủ công bằng đất sét. “Bảo tòa thỉnh Phật trụ thế truyền tháp luận” làm năm 1940, cao hơn 2m, là tòa sen 1.000 cánh, mỗi cánh một vị thần ngự. Dưới đài sen có "Bát quái Thiên tiên" gồm 8 cung Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài. Mỗi cung có hai tiên nữ đứng hầu; dưới đài sen và Bát quái có Tứ Đại Thiên Vương trấn giữ. Chân tháp tạo hình Tứ linh (lân, long, quy, phụng) và 12 con cá hóa long.

“Tháp Đa Bảo” làm năm 1939, cao khoảng 4m; 13 tầng, mỗi tầng 16 cửa, mỗi cửa một tượng Phật; tổng cộng 208 cửa, 208 vị Phật. Quanh tháp có 156 con rồng uốn lượn như đang bay vút lên trời, hộ pháp tháp. Tháp Đa Bảo và Tòa Sen “ý tại ngôn ngoại” dùng hình tượng nói thay lời Phật. “Lục Long Đăng” làm năm 1970 gồm ba chóp đỉnh với 6 con rồng chụm đuôi, đầu trổ ra ngoài; tượng trưng Lục tỉnh miền Tây Nam bộ (Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên). Đáy đèn là tòa sen lật úp, tỏa cánh xuống điện thờ.

Có nhiều tượng thú canh giữ tượng thờ. Cặp Kim Lân ngẩng đầu, ngậm trân châu, chân gác quả cầu oai phong. Các cặp Thanh Sư, Bạch Hổ, Long Mã… rất có hồn. Có 7 lư hương và 3 cây nhang lớn, mỗi cây cao 2m; nặng 50kg. Biết hạn đời sắp cạn, những năm cuối, ông Tòng tạm ngưng làm tượng, tập trung làm lục long đăng và đèn cầy (nến) trường niên.

Ông mua sáp bạch lạp nguyên chất từ Sài Gòn, cùng đệ tử thân tín, chặt vụn, nấu chảy đúc đèn cầy. Đèn quá cỡ, phải dùng tôn lợp nhà tạo khuôn riêng. Sáp đổ vào chảo lớn, nấu nhiều ngày, đổ liên tục đến khi đầy ống tới hết chiều cao. Cả tháng sau, các đôi đèn mới khô hẳn. Khi tháo khuôn, vỏ đèn hình tôn dợn sóng. Làm liên tục gần năm, ông đúc được ba cặp đèn lớn, mỗi cây nặng 200kg, cao 2m60 và một cặp cây đèn nhỏ, mỗi cây nặng 100 kg; cao 1m30; đường kính 0m70.

Ông ước tính, đèn cầy nhỏ sẽ cháy liên tục 40 năm, được thắp sáng lần đầu vào rằm tháng 7 năm 1970. Ông mất ngày 18/7/1970 (Canh Tuất, AL), 3 ngày sau khi hoàn thành kiệt tác Lục long đăng. Cặp đèn cầy nhỏ, cháy liên tục 55 năm (1970 - 2025). Đầu tháng 6/2025 AL, phật tử dâng nến cúng nên chùa nấu đổ lại trên trụ cũ khoảng 15 cm và tiếp tục thắp sáng. Ba cặp nến lớn để làm di tích vì nếu thắp có thể cháy liên tục khoảng 170 năm (gấp đôi đời người).

Nữ nhà văn Nguyễn Ngọc Phượng viết "Có thể nói cậu Năm Ngô Kim Tòng là người sống vì đất. Suốt 42 năm miệt mài với từng gánh đất, nâng niu từng vốc đất, cậu đã tạo dáng cho đất, phả hồn thiêng vào đất, tạo nhịp đập trái tim cho đất để trăm năm sau đất cất tiếng nói thay người"...

Hơn nửa thế kỷ qua, những nắm đất sét quê vô tri, qua bàn tay ảo diệu của tu sĩ - nghệ nhân Ngô Kim Tòng, được truyền hồn thiêng, vẫn bình dị, khiêm cung, tự tin trước thăng trầm cuộc sống, chưa có dấu hiệu hư hỏng, xuống cấp.

Càng mừng hơn khi chùa được sắp xếp, tổ chức lại. Du khách tới tham quan sẽ an tâm hơn khi không còn nạn ăn xin, bán hàng chèo kéo như trước.

Nguyễn Văn Mỹ (Chủ tịch Lửa Việt Tours)

 

news_is_not_ads=
TIN MỚI