Khi phế phẩm nông nghiệp trở thành nguyên liệu quý
Hơn 16g một ngày giữa tháng Tám, tại 4-5 phòng nghiên cứu của Trường đại học Nông Lâm TPHCM, sinh viên, học viên cao học miệt mài làm các thí nghiệm, dù đang kỳ nghỉ hè. Tiến sĩ Mai Huỳnh Cang (42 tuổi) - Phó trưởng khoa Công nghệ hóa học và Thực phẩm, vẫn ân cần chỉ từng bước cho nhóm sinh viên tách chiết tinh chất từ bã nghệ, bã gừng. Nhìn vào từng sản phẩm của sinh viên, cô vừa hỏi vừa đưa ra đánh giá cách làm và gợi ý cách cải thiện.
Nữ tiến sĩ cho biết, định hướng nghiên cứu của cô là tách chiết, vi bọc tinh dầu và các hợp chất có hoạt tính sinh học có nguồn gốc từ thiên nhiên; nghiên cứu ứng dụng chiết xuất có nguồn gốc từ thiên nhiên phát triển các sản phẩm thực phẩm chức năng, dược mỹ phẩm, sản phẩm chăm sóc cá nhân; ứng dụng công nghệ màng lọc tách chiết hợp chất thiên nhiên, giảm sử dụng hóa chất độc hại, giảm thiểu tác hại môi trường…
Hàng chục đề tài nghiên cứu của cô đều hướng tới việc tạo ra các sản phẩm có nguồn gốc từ thiên nhiên. Mới đây nhất, cô đã chuyển giao thành công đề tài xây dựng mô hình sản xuất tinh dầu từ phụ phẩm cam sành và bưởi da xanh tại Bắc Tân Uyên (Bình Dương trước đây) và phát triển một số sản phẩm ứng dụng từ tinh dầu với giá trị chuyển giao hàng tỉ đồng. Với đề tài này, khi đưa vào sản xuất, nhiều phế phẩm nông nghiệp bỏ đi, như: bưởi non không đạt chất lượngbỏ, vỏ bưởi, bã tép bưởi, vỏ cam, vỏ quýt… đều trở thành nguồn nguyên liệu quý để sản xuất tinh dầu và các sản phẩm chăm sóc sức khỏe.
“Với quả bưởi non, người dân cắt bỏ để dưới gốc cây nếu không được xử lý có thể gây ô nhiễm đất, thế nhưng, dưới công nghệ chế biến của chúng tôi có thể tạo ra rất nhiều sản phẩm giá trị cao như tinh dầu vỏ bưởi, trà vỏ bưởi, trà hòa tan, trà thảo mộc…”, nữ tiến sĩ nói.
 |
Phó giáo sư, tiến sĩ Mai Huỳnh Cang (thứ 2 từ phải qua) hướng dẫn sinh viên làm nghiên cứu khoa học tại phòng Lab của trường - Ảnh: Nguyễn Loan |
Không chỉ phế phẩm từ quả bưởi, hàng loạt đồ “bỏ đi”, như: bã gừng, bã nghệ, sả, hoa oải hương, cam sành, quýt, tắc… cũng được cô nghiên cứu, tìm cách đưa công nghệ vào để tách chiết các loại tinh dầu tạo ra các sản phẩm khác như xịt phòng, xà bông, nước rửa chén, xà bông tắm, kem dưỡng da…
“Khi đưa vào sản xuất với quy mô lớn, người dân sẽ có đầu ra ổn định, không phải lo đến câu chuyện “được mùa mất giá” nữa. Tuy nhiên, khi chuyển giao công nghệ và triển khai sản xuất đại trà, trăn trở lớn nhất của tôi là làm sao có nguồn nguyên liệu đầu vào ổn định, kiểm soát tốt được chất lượng. Hiện tại, chúng tôi đang sản xuất manh mún, thu mua ở từng vườn nhỏ lẻ nên gặp nhiều khó khăn”, cô Huỳnh Cang chia sẻ và mong muốn có thể kết nối được với nông dân để cùng tìm đầu ra cho sản phẩm.
Truyền cảm hứng cho sinh viên bằng những trải nghiệm thực tế
Chia sẻ về hành trình theo đuổi công việc sống trong phòng thí nghiệm nhiều hơn ở nhà, nữ nhà khoa học - cho biết, bản thân bị “đưa đẩy” vào con đường nhiều chông gai này. Năm 2005, sau khi tốt nghiệp ngành bảo quản chế biến nông sản thực phẩm tại Trường đại học Nông Lâm TPHCM, cô được nhận học bổng thạc sĩ tại Trường đại học Montpellier 2 (Pháp), rồi học bổng tiến sĩ tại Trường đại học ULB (Bỉ). Càng học lên cao, được tiếp cận và bắt đầu tham gia nghiên cứu cùng đồng nghiệp, giảng viên cô cảm thấy thích thú và đam mê với việc tìm hiểu cái mới.
Là giảng viên đại học, đồng thời là người hướng dẫn học viên cao học, nghiên cứu sinh, cô truyền cảm hứng cho học trò bằng chính bề dày kinh nghiệm nghiên cứu của mình.
Việc chuyển giao nhiều đề tài thành công còn giúp cô có kinh phí hỗ trợ trực tiếp cho sinh viên, học viên - những người ngày đêm thực hiện nghiên cứu các đề tài cùng mình. Theo cô, đây cũng là cách để người học thấy được ngay những thành quả mà bản thân vất vả thực hiện, có thêm động lực và hứng thú khi cùng tham gia nghiên cứu.
“Mình vẫn hay nói với giảng viên trẻ phải thực tế hóa bài giảng. Ví dụ, khi dạy về chưng cất thì hãy đưa chính sản phẩm và kinh nghiệm của mình lên lớp. Sinh viên thấy được cả quá trình thực tế chứ không chỉ học lý thuyết thì sinh viên sẽ tự động thích thú”, cô chia sẻ.
 |
Phó giáo sư, tiến sĩ Mai Huỳnh Cang dùng chính những những trải nghiệm làm khoa học của bản thân để truyền cảm hứng cho sinh viên - Ảnh: Nguyễn Loan |
Dành cả tuổi trẻ để theo đuổi sự nghiệp nghiên cứu, cô cho rằng, làm khoa học thì ai cũng vất vả, nhưng với nữ giới thì việc cân đối thời gian giữa công việc, gia đình, và nghiên cứu là khó khăn nhất. “Nhất là khi có con nhỏ, ban ngày mình đi dạy, chiều tối dành thời gian cho con và gia đình, rồi đêm khuya vừa chăm con vừa mày mò tới sáng. Nhiều lúc rất mệt nhưng công việc đã trở thành một phần trong cuộc sống, nên mình vẫn cố gắng sắp xếp để chu toàn mọi việc”, nữ nhà khoa học chia sẻ.
Ngoài ra, còn một khó khăn lớn khi làm nghiên cứu chính là “đầu ra” cho các sản phẩm của mình. Đi theo hướng nghiên cứu ứng dụng, để chuyển giao các đề tài từ phòng thí nghiệm ra tới nhà sản xuất là một chặng đường dài và rất nhiều khó khăn. Bởi với doanh nghiệp, ngoài những sản phẩm chất lượng thì yếu tố giá thành sản xuất, lợi nhuận được đặt lên hàng đầu. Trong khi, các nghiên cứu của cô hướng tới việc sử dụng các nguyên liệu thuần tự nhiên nên rất khó cân đối được giá thành. “Để giải quyết bài toán này, trong quá trình từ thí nghiệm chúng tôi phải tính đến bài toán chuyển giao. Nhà khoa học phải cho ra được sản phẩm chất lượng, nhưng giá tới tay người tiêu dùng phù hợp”, cô nói.
Nhiều đề tài nghiên cứu chuyển giao thành công Đến nay, sau 20 năm làm nghiên cứu khoa học, cô Mai Huỳnh Cang đã chủ nhiệm 9 đề tài, dự án trong nước và quốc tế; tham gia cùng thực hiện 7 đề tài khác. Trong đó, hàng loạt đề tài cô nghiên cứu đã được nghiệm thu, như: Xây dựng mô hình sản xuất tinh dầu từ phụ phẩm cam sành và bưởi da xanh tại Bắc Tân Uyên (Bình Dương trước đây) và phát triển một số sản phẩm ứng dụng từ tinh dầu; Vi bọc tinh dầu họ hoa môi bằng kỹ thuật sấy phun; Tối ưu hóa các điều kiện tách lycopene từ phụ phẩm dưa hấu (Citrullus lanatus Thumb) ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam bằng kỹ thuật siêu lọc kết hợp tiền xử lý bằng enzyme… Cô đã công bố 75 công trình khoa học, trong đó có 47 công trình là tác giả chính, 28 công trình khoa học là đồng tác giả. Cô được nhận bằng khen của Bộ trưởng Bộ GD-ĐT năm 2019 vì thành tích trong nghiên cứu khoa học, giảng dạy. |
Nguyễn Loan