 |
Quốc hội biểu quyết thông qua Luật việc làm (sửa đổi) - Ảnh: QH |
Có thể mở rộng vay vốn cho doanh nghiệp có phụ nữ làm chủ
Trước đó, tiếp thu, giải trình và chỉnh lý dự thảo Luật Việc làm (sửa đổi), Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa – Xã hội Nguyễn Đắc Vinh cho biết, có ý kiến đề nghị bổ sung quy định hỗ trợ) Người lao động là cán bộ, công chức, viên chức bị ảnh hưởng bởi sắp xếp tổ chức bộ máy trong hệ thống chính trị; người lao động là người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài làm việc tại Việt Nam; người sử dụng nhiều lao động tại địa phương, vùng nông thôn, miền núi; có nhiều lao động là người khuyết tật.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng, dự thảo Luật quy định các chính sách hỗ trợ việc làm cho tất cả người lao động, không có sự phân biệt.
Các chính sách hỗ trợ việc làm đối với người khuyết tật; người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; cán bộ, công chức, viên chức bị ảnh hưởng bởi sắp xếp tổ chức bộ máy trong hệ thống chính trị … đã được quy định trong các luật có liên quan nên Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin được giữ như dự thảo Luật.
Về đối tượng vay vốn chính sách hỗ trợ tạo việc làm, theo ông Nguyễn Đắc Vinh, một số ý kiến đề nghị mở rộng hoặc ưu tiên vay vốn đối với các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh sử dụng nhiều lao động nữ hoặc do phụ nữ làm chủ; sử dụng nhiều lao động là người cao tuổi; doanh nghiệp khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo.
Có ý kiến đề nghị mở rộng đối tượng được vay vốn hỗ trợ tạo việc làm, duy trì, mở rộng việc làm và đi làm việc ở nước ngoài với lãi suất ưu đãi, ví dụ như: người thuộc hộ mới thoát nghèo, người thuộc hộ cận nghèo; người dân tộc thiểu số thuộc hộ nghèo ở vùng đặc biệt khó khăn; lao động tự do, lao động phi chính thức, lao động trên nền tảng số…
Tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, dự thảo Luật đã chỉnh lý theo hướng giao Chính phủ, căn cứ vào tình hình kinh tế - xã hội và yêu cầu cho vay vốn giải quyết việc làm, để quyết định mở rộng đối tượng được vay với mức lãi suất thấp hơn.
Vì sao không nâng hỗ trợ thất nghiệp?
Về mức hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng, có ý kiến đề nghị nâng mức hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng lên tối thiểu 65% và cho phép Chính phủ điều chỉnh tăng lên tối đa 75% trong trường hợp khủng hoảng kinh tế, dịch bệnh quy mô lớn.
Có ý kiến đề nghị tăng mức hưởng lên 70% nhưng không quá 5 lần mức lương tối thiểu vùng và cứ mỗi 6 tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp thì được hưởng thêm 1 tháng trợ cấp thất nghiệp nhưng tối đa không quá 12 tháng.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng, việc Quỹ bảo hiểm thất nghiệp kết dư thời gian qua chủ yếu được tích lũy từ giai đoạn trước, do được Ngân sách nhà nước hỗ trợ hằng năm, khi đó, số đối tượng thụ hưởng các chế độ còn ít. Nhưng từ năm 2020 đến nay thì số thu và chi bảo hiểm thất nghiệp hằng năm là cân bằng nhau.
Theo kinh nghiệm của các quốc gia thực hiện thành công chính sách bảo hiểm thất nghiệp hoặc bảo hiểm việc làm (Canada, Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan…) và quy chuẩn quốc tế về bảo hiểm thất nghiệp thì mức trợ cấp thất nghiệp không ít hơn 45% của thu nhập trước đó hoặc không ít hơn 45% của tiền lương tối thiểu theo quy định hoặc của tiền lương của người lao động bình thường nhưng không ít hơn mức sống cơ bản tối thiểu; thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp tối thiểu là 12 tuần (3 tháng) trong thời kỳ 12 tháng.
Tương tự, Bộ luật Lao động (Điều 47 và Điều 48) quy định trách nhiệm của người sử dụng lao động trong việc chi trả trợ cấp thôi việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên và trợ cấp mất việc làm cho người lao động đã làm việc thường xuyên cho mình từ 12 tháng trở lên (mỗi năm làm việc trả 1 tháng tiền lương (100% mức tiền lương) nhưng ít nhất phải bằng 2 tháng tiền lương (tối thiểu 200% mức tiền lương).
Do đó, dự thảo quy định: “mức hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng bằng 60% mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp của 6 tháng đã đóng bảo hiểm thất nghiệp gần nhất trước khi chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc hoặc chấm dứt làm việc nhưng tối đa không quá 5 lần mức lương tối thiểu tháng theo vùng do Chính phủ công bố được áp dụng tại tháng cuối cùng đóng bảo hiểm thất nghiệp”.
Cứ đóng đủ 12 tháng đến đủ 36 tháng thì được hưởng 3 tháng trợ cấp thất nghiệp, sau đó, cứ đóng đủ thêm 12 tháng thì được hưởng thêm 1 tháng trợ cấp thất nghiệp nhưng thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp tối đa 12 tháng.
Theo ông Vinh, quy định này tương đối phù hợp với thông lệ quốc tế và các mức trợ cấp mà người lao động được nhận khi mất việc làm theo quy định hiện hành đồng thời đảm bảo khả năng cân đối thu chi của Quỹ bảo hiểm thất nghiệp.
Luật Việc làm (sửa đổi) có hiệu lực từ ngày 1/1/2026.
Minh Quang