Nhà thơ, nhà báo Lê Minh Quốc: “Giá như sách được làm sớm hơn…”

11/06/2025 - 06:07

PNO - Sở Văn hóa và Thể thao TPHCM vừa ra mắt công trình sách Đoàn văn công giải phóng R - một dấu ấn lịch sử nhân kỷ niệm 50 năm nền văn học - nghệ thuật TPHCM sau ngày đất nước thống nhất (1975-2025).

Báo Phụ nữ TPHCM đã phỏng vấn nhà thơ, nhà báo Lê Minh Quốc - người chịu trách nhiệm chính thực hiện nội dung và chấp bút, về công trình sách đầy ý nghĩa này.

Nhà thơ, nhà báo Lê Minh Quốc  và Nghệ sĩ ưu tú  Phi Yến tưởng nhớ các nghệ sĩ -  chiến sĩ văn công giải phóng đã  hy sinh, sau khi hoàn thành  công trình sách  Đoàn văn công giải phóng R - một dấu ấn lịch sử - Ảnh do  nhân vật cung cấp
Nhà thơ, nhà báo Lê Minh Quốc và Nghệ sĩ ưu tú Phi Yến tưởng nhớ các nghệ sĩ - chiến sĩ văn công giải phóng đã hy sinh, sau khi hoàn thành công trình sách Đoàn văn công giải phóng R - một dấu ấn lịch sử - Ảnh do nhân vật cung cấp

Những bài học vô giá về tình yêu nước

Phóng viên: Từng thực hiện không ít công trình sách văn hóa - lịch sử, Đoàn văn công giải phóng R - một dấu ấn lịch sử có gì đặc biệt đối với ông?

Nhà thơ, nhà báo Lê Minh Quốc: Trong 2 năm qua, từ khi có kế hoạch đề ra từ Sở Văn hóa và Thể thao TPHCM, tôi đã gặp gỡ nhiều nhân chứng, xử lý rất nhiều tư liệu, thực hiện khối lượng công việc rất lớn. Quá trình đó đã làm nảy nở trong tôi tình cảm đặc biệt đối với Đoàn văn công giải phóng R (ĐVCGPR). Họ cũng yêu thương, xem tôi là người đủ khả năng và tin cậy để chia sẻ những ký ức về một thời vừa là nghệ sĩ vừa là chiến sĩ để cùng viết nên lịch sử ĐVCGPR. Càng tiếp xúc với những người trong cuộc mà ban đầu cứ tưởng là mình viết về họ nhưng hóa ra chính các cô chú, anh chị đang dạy mình về tình yêu thiêng liêng - tình yêu nước.

* Ông đã định hướng, chọn lọc thông tin ra sao để làm nên công trình này khi không thể đưa tất cả dữ liệu vào tác phẩm?

- Đầu tiên, phía sở yêu cầu làm đề cương. Tôi nói mình không làm đề cương được. Bởi vì, thứ nhất, tôi là người ngoại đạo của đoàn. Thứ hai, đối với nhân chứng, để xác định điều gì với họ là quan trọng nhất, điều gì còn đọng lại trong trí nhớ họ, điều gì mình có thể chọn lọc để dựng nên câu chuyện…, tôi phải gặp và lắng nghe. Trong quá trình gặp gỡ nhân chứng và đọc tư liệu, tôi lẩy ra đâu là yếu tố then chốt nhất của đoàn văn công này; nó khác với đoàn văn công của các quân khu, đoàn văn công các bộ tư lệnh miền như thế nào… Và tôi đã tìm ra được cái cốt lõi của ĐVCGPR. Trong quá trình làm và viết, chính nhân vật, tư liệu, tác phẩm của họ đã định hình đề cương cho tôi, tức là từ thực tế mà ra chứ tôi không thể tưởng tượng.

Công trình sách Đoàn văn công giải phóng R - một dấu ấn lịch sử vừa được ra mắt nhân kỷ niệm 50 năm nền văn học - nghệ thuật TPHCM sau ngày đất nước thống nhất
Công trình sách Đoàn văn công giải phóng R - một dấu ấn lịch sử vừa được ra mắt nhân kỷ niệm 50 năm nền văn học - nghệ thuật TPHCM sau ngày đất nước thống nhất

Nếu công trình này được thực hiện sớm hơn thì tập sách sẽ khác hơn

* Vậy cái cốt lõi của ĐVCGPR mà ông tìm ra là gì?

- Đây là 1 tổ chức văn nghệ kháng chiến có quy mô lớn nhất miền Nam, đóng vai trò tiên phong, tập hợp lực lượng và chỉ đạo xuyên suốt dòng chảy văn hóa văn nghệ kháng chiến miền Nam. Ở đây tập trung tất cả lực lượng văn nghệ, không phải chỉ để biểu diễn mà còn đưa về các địa phương để đào tạo, móc nối, đưa dòng chảy văn hóa kháng chiến về các tỉnh. Lần đầu tiên, Trung ương Cục miền Nam mở trường Lam Giang - quy tụ nhân lực từ các tỉnh miền Nam trở về R học tập. Có 300 diễn viên, nghệ sĩ được trường Lam Giang đào tạo tiếp nối sự nghiệp văn nghệ kháng chiến. Công lớn nhất của ĐVCGPR là đã tạo ra 1 dòng chảy kháng chiến từ các vùng giải phóng, từ chiến trường miền Nam. Toàn bộ kế hoạch bình định của địch với việc đưa tâm lý chiến vào, cùng mọi thủ đoạn hòng đánh bạt dòng chảy này đều bị đẩy đi nhờ các lực lượng văn nghệ kháng chiến.

Một điều thú vị là ĐVCGPR có đủ các loại hình, từ âm nhạc, kịch nói, múa rối… đến cải lương. Miền Nam thì phải có cải lương. Nhưng lúc bấy giờ, có quan điểm rằng cải lương quá ủy mị, không thể đi theo kháng chiến. Ông Nguyễn Ngọc Cung và ông Phạm Ngọc Truyền có công đầu trong việc chứng minh những làn điệu cổ vẫn thể hiện được nội dung mới, khẳng định sân khấu cải lương hoàn toàn phục vụ được cuộc kháng chiến và họ đã thành công.

Vì sao trong cuộc kháng chiến khốc liệt như thế, nơi nghệ sĩ phải đào hầm trú ẩn trước khi biểu diễn mà lại hình thành được toàn bộ các loại hình văn học nghệ thuật? Đây là điều bí ẩn chỉ người trong cuộc mới lý giải được. Đáng tiếc, bây giờ nhiều người sức đã yếu, trí nhớ không còn như xưa, không thể tái hiện hết. Nhưng qua quá trình tìm hiểu, tôi rút ra được kết luận. Đó là nhờ lòng yêu nước lớn lao và 1 điểm tựa để họ hướng về - Bác Hồ. Nhạc sĩ Phạm Minh Tuấn luôn nhớ lời mẹ dặn khi từ Campuchia về nước hoạt động ở tuổi 17, 18: “Đã đi với Cụ Hồ thì đi đến nơi về đến chốn nghe con!”. Các cô chú, anh chị ĐVCGPR đã chia sẻ điều đó. Là người viết, tôi rất muốn chia sẻ lại điều này với độc giả hôm nay và các thế hệ mai sau.

* Có điều gì ông còn tiếc nuối, chưa thể đưa vào sách?

- Nếu công trình này được thực hiện sớm hơn thì tập sách sẽ khác hơn. Là người thực hiện công trình, nỗ lực của tôi là tìm kiếm văn bản. 50 năm đã qua, không còn giữ lại được nhiều. Đó là điều tôi tiếc nuối nhất. Tôi muốn đưa vào nhiều văn bản hơn nữa để mọi người thấy rõ hơn nền tảng, chất liệu, tác phẩm của các nghệ sĩ ĐVCGPR.

Bên cạnh đó, điều tôi mong mỏi nhiều nhất là gặp gỡ nhân chứng càng nhiều càng tốt. Tiếc thay, người của đoàn hiện còn sống không nhiều hoặc không còn đủ khỏe, trí nhớ không còn như xưa. Có những nhân vật mình phải gặp đi gặp lại nhiều lần; có những nhân vật phải tìm hiểu rất nhiều tư liệu để xác minh, đối chiếu thông tin. Rất nhọc nhằn nhưng đó không là gì cả so với ý nghĩa công trình này.

Nếu sách được tái bản, tôi sẽ làm thêm nhiều thứ. Một là bổ sung những cột mốc, năm tháng còn thiếu về lai lịch đoàn. Hai là bổ sung những nhân vật chưa đưa vào sách và bổ sung chi tiết cho một số nhân vật từ những chia sẻ mới của họ trong các cuộc giao lưu. Bên cạnh đó, về mặt văn bản tác phẩm, nếu được, tôi cũng sẽ bổ sung.

ĐVCGPR (thuộc Ban Tuyên huấn Trung ương Cục Miền Nam) ra mắt ngày 15/2/1961 gắn liền với sự kiện ra đời của Quân giải phóng miền Nam. Dù chỉ có gần 15 năm hoạt động kể từ khi thành lập đến đại thắng 30/4/1975, đoàn đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh của mình, góp phần quan trọng trong chiến thắng vinh quang của dân tộc.

Lực lượng ĐVCGPR được tập hợp từ nhiều nguồn: Việt kiều yêu nước Campuchia (nhạc sĩ Phạm Minh Tuấn, nhạc công Đào Thắng, nhạc sĩ Phan Thao); cán bộ tập kết (nhạc sĩ Hoàng Việt, soạn giả Thanh Nha, soạn giả Ngọc Cung, đạo diễn Bích Lâm, nhạc sĩ Hồ Bông…); tăng cường từ miền Bắc (tác giả Ngô Y Linh, nghệ sĩ Thái Ly, ca sĩ Tô Lan Phương, nghệ sĩ Vũ Việt Cường…); từ nội thành Sài Gòn (nghệ sĩ Bảy Lương, diễn viên Mỹ Long…); đoàn văn công Y4 (nghệ sĩ Phi Yến); từ các tỉnh miền Nam (nghệ sĩ Mười Đờn, diễn viên An Long, soạn giả Thanh Hiền…).

Những bài hát Qua sông, Bài ca người nữ tự vệ Sài Gòn, Người sống mãi trong lòng miền Nam, Đâu có giặc là ta cứ đi… đã ra đời từ thực tiễn chiến trường. Đặc biệt, tác phẩm Nghệ thuật tuổi thơ với sự tham gia của các diễn viên rối ĐVCGPR đã đoạt giải Bông sen vàng Liên hoan phim Việt Nam lần I (1970), giải Apsara vàng Liên hoan phim quốc tế tại Phnom Penh (1968). Bên cạnh đó, còn nhiều ca khúc, vở cải lương, kịch ngắn được giải thưởng Văn hóa văn nghệ Nguyễn Đình Chiểu - 1 giải thưởng cao quý của nền văn nghệ kháng chiến miền Nam.

Sách Đoàn văn công giải phóng R - một dấu ấn lịch sử do Nhà xuất bản Tổng hợp TPHCM ấn hành, dày hơn 500 trang, gồm 3 phần: “Vai sát vai chung một bóng cờ (bối cảnh và lịch sử hình thành ĐVCGPR); “Chân dung tài hoa ngược dòng thác lũ” (hồi ký của các văn, nghệ sĩ thuộc ĐVCGPR); “Duyên này thì giữ vật này của chung” (gồm 50 ca khúc cách mạng ra đời trong thời kỳ này và những lá thư từ tuyến đầu Tổ quốc).

Ninh Lộc (thực hiện)

 

news_is_not_ads=
TIN MỚI