Lạ lùng chuyện tình người và yêu tinh

14/09/2025 - 08:00

PNO - Năm 1656, ở một ngôi làng nhỏ thuộc miền nam Thụy Điển, người phụ nữ tên Karin Svensdotter phải ra hầu tòa vì cáo buộc không thể bất thường hơn: “gian dâm với một tồn tại siêu nhiên”.

Là hầu gái làm việc trong vùng, Svensdotter có thể đã mãi vô danh như bao phụ nữ nông thôn khác, cho đến khi bà bị tòa án địa phương điều tra và đưa ra xét xử. Bà bị gán tội danh có mối quan hệ bất chính với một nhân vật kỳ dị, vốn Svensdotter quả quyết chính là… “Vua của giới Yêu tinh”.

Mối tình “cấm kỵ”

“Chuyện tình” bị chỉ trích là hoang đường giữa cả hai bắt đầu vài năm trước đó, theo lời Svensdotter thuật lại trên tòa.

Ngày nọ, Svensdotter kể, một người đàn ông điển trai “mặc một bộ trang phục dát vàng lộng lẫy chủ động tiếp cận” bà. Người này tự xưng là Älvakungen (tiếng Thụy Điển mang nghĩa Vua Yêu tinh).

] Tàn tích lâu đài cổ ở ngôi làng nhỏ Sävsjö (ngày nay là một thị trấn vẫn khá hoang vắng) - nơi được cho rằng đã diễn ra câu chuyện tình kỳ dị của Svensdotter. - Ảnh: Fastighetsbyrån
Tàn tích lâu đài cổ ở ngôi làng nhỏ Sävsjö (ngày nay là một thị trấn vẫn khá hoang vắng) - nơi được cho đã diễn ra câu chuyện tình kỳ dị của Svensdotter - Ảnh: Fastighetsbyrån

Người đàn ông dẫn Svensdotter vào rừng sâu, đến một thung lũng rộng lớn ẩn mình giữa núi cao. Tại đây, Älvakungen “giới thiệu bà với những yêu tinh khác”. Tất cả họ “thay trang phục đẹp nhất, để cùng nhảy múa, tận hưởng âm nhạc và thức ăn ngon”.

Về sau, Älvakungen bắt đầu ghé thăm người phụ nữ thường xuyên hơn. Kết tinh của mối tình này là 7 đứa trẻ lần lượt ra đời vài năm kế tiếp. Thế nhưng, Svensdotter cho biết, mỗi lần một đứa con của họ được chào đời, người cha “yêu tinh” lại xuất hiện và mang đứa bé về vương quốc của hắn, bất luận người mẹ liên tục phản đối, than khóc.

Sách cổ ghi chép về buổi xử án tưởng chừng chỉ có trong tiểu thuyết huyền ảo: “Nhiều nhân chứng tại phòng xử khi ấy đều khẳng định, Svensdotter có dấu hiệu mệt mỏi về thể chất”. Người phụ nữ khăng khăng rằng, biểu hiện mệt mỏi ấy là do nỗi đau sinh con và mất con. Dân làng nơi Svensdotter sống cũng tiết lộ, hằng đêm, họ thường trông thấy bà quanh quẩn ra vào khu rừng gần đó, như thể muốn tìm kiếm những đứa con bị Älvakungen tước đoạt.

Tuy nhiên, tòa kết luận, cơ thể Svensdotter không có bất kỳ dấu hiệu nào chứng tỏ từng mang thai.

Tranh minh họa (năm 1910) về “thế giới yêu tinh” trong trí tưởng tượng của con người. - Ảnh: Wikipedia
Tranh minh họa (năm 1910) về “thế giới yêu tinh” trong trí tưởng tượng của con người - Ảnh: Wikipedia

Buổi xét xử Svensdotter có thể khiến truyền thông ngày nay chấn động. Thế nhưng đáng kinh ngạc là, những vụ việc kỳ dị thế này không quá hiếm gặp ở châu Âu giai đoạn đầu hiện đại (giữa thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XVIII). Tuy chỉ xuất hiện ở một số quốc gia nhất định, các tồn tại siêu nhiên dẫu phi thực như tinh quái, yêu tinh lại gây nên làn sóng lo sợ rất thật. Thậm chí, một bộ phận dân cư nông thôn đã có lúc bị ám ảnh bởi tư duy mê tín, tin rằng yêu tinh có khả năng “quyến rũ, mưu hại” người sống.

Khoảng những năm 1600, học thuyết Ki-tô giáo dần phổ biến rộng khắp trong xã hội Thụy Điển. Thế nhưng, đến năm 1608, khi Kinh thánh chính thức được công nhận như cơ sở thực thi pháp luật tại đất nước Bắc Âu này, một rắc rối nghiêm trọng dần nhen nhóm hình thành: sự đối nghịch giữa 2 quan điểm tôn giáo cũ và mới.

Nhiều dấu ấn tín ngưỡng cổ xưa, như niềm tin vào phù thủy, yêu tinh, không chỉ bị bài xích - bác bỏ, mà còn có thể dẫn đến những bản án tử hình cho người trong cuộc.

Vì sinh kế lẫn đời sống tinh thần của người dân châu Âu thời cổ gắn liền với rừng núi, nền tảng văn hóa của họ luôn ẩn giấu nhiều tồn tại huyền bí, được tin rằng “sinh ra từ núi rừng”. - Ảnh: AtlasObscura
Vì sinh kế lẫn đời sống tinh thần của người dân châu Âu thời cổ gắn liền với rừng núi, nền tảng văn hóa của họ luôn ẩn giấu nhiều tồn tại huyền bí, được tin rằng “sinh ra từ núi rừng” - Ảnh: AtlasObscura

Thời đại của xung đột tín ngưỡng

“Từng tồn tại hai góc nhìn đối lập rõ rệt, ở những phiên tòa phán xử các sự việc kỳ quái thế này” - học giả văn hóa dân gian Tommy Kuusela, chia sẻ.

Những cá nhân tham gia vào buổi xét xử Svensdotter, bao gồm bản thân bà, luôn tin rằng bản thân theo Công giáo. “Nhưng niềm tin vào thế giới tự nhiên, bao gồm sự kính sợ dành cho những tồn tại như yêu tinh, tinh quái, vẫn ẩn hiện trong tư duy của họ” - Kuusela nói. “Người dân lắng nghe các tư tưởng Công giáo từ giáo hội, nhà thờ địa phương. Thế nhưng đồng thời, vì sinh hoạt gần gũi với thiên nhiên mỗi ngày, họ không thể không tiếp tục chịu ảnh hưởng từ nền tảng văn hóa dân gian”.

Nhân vật thần thoại gây sợ hãi trong văn hóa cổ là “rå” (mang nghĩa “kẻ thống trị” trong ngôn ngữ Thụy Điển cổ). Những “yêu tinh” rå, theo Kuusela, được hiểu là “thần rừng”, “thần hồ”, hoặc “thần núi”... tùy khu vực họ trú ngụ và “thống trị”.

Các “thần rừng” xung đột với một nhóm binh lính, phác họa sự đối nghịch giữa 2 nền tảng đức tin. Cảnh tượng huyền ảo mô tả trên một tấm tranh khắc gỗ cổ xưa nguồn gốc từ Thụy Điển, khoảng thế kỉ XVI. - Ảnh: AtlasObscura
Các “thần rừng” xung đột với một nhóm binh lính, phác họa sự đối nghịch giữa 2 nền tảng đức tin. Cảnh tượng huyền ảo mô tả trên một tấm tranh khắc gỗ cổ xưa nguồn gốc từ Thụy Điển, khoảng thế kỷ XVI - Ảnh: AtlasObscura

“Hình dáng của rå đa dạng và tạo cảm giác rùng rợn, thường là sự lai tạp giữa một hay một vài loài động vật rừng, cùng con người” - vị học giả nhấn mạnh. “Phổ biến hơn cả trong sách cổ là mô tả về những phụ nữ mình người - đuôi ngựa hay đuôi bò. Và khi đứng phía sau rå, bạn sẽ trông thấy ‘phần lưng trống rỗng’ đáng sợ của họ”.

Nhiều tư liệu và tác phẩm văn học cổ miêu tả “yêu tinh thích giả dạng thành một phụ nữ đẹp”, chuyên đeo bám và mang lại điềm gở cho các thợ săn, nông dân, lữ khách nam giới, khi họ chẳng may lạc đường.

Năm 1691, Sven Andersson, một nông dân sống tại Tây Gothland (tỉnh miền tây nam Thụy Điển) bị xử tử hình khi có nhân chứng tố cáo, từng trông thấy ông đi theo một rå vào núi sâu. Xa xưa, cũng xuất hiện vài trường hợp binh lính bị bắt giữ vì tội đào ngũ tự bào chữa rằng, họ bị “yêu tinh quyến rũ, lạc lối đến một nơi khác cách xa doanh trại”.

Trong truyện thần thoại, người Thụy Điển mô tả “các yêu nữ/yêu tinh” thường để lộ những chi tiết dị thường trên cơ thể, chẳng hạn như chiếc đuôi ngựa phía sau lớp váy áo. - Ảnh: AtlasObscura
Trong truyện thần thoại, người Thụy Điển mô tả “các yêu nữ/yêu tinh” thường để lộ những chi tiết dị thường trên cơ thể, chẳng hạn như chiếc đuôi ngựa phía sau lớp váy áo - Ảnh: AtlasObscura

Ảo tưởng, mê tín hay bệnh tật?

Ý tưởng về những tồn tại không thể lý giải - ẩn mình giữa rừng núi hoang vu, thế nhưng, không phải luôn cực đoan và gắn liền với nguy hiểm chết chóc.

Nhà sử học Göran Malmstedt, công tác tại Đại học Göthenburg (Göteborg, Thụy Điển) lý giải cụ thể: “Đáng kinh ngạc thay, ý nghĩa cổ điển - xa xưa nhất về ma thuật và phù thủy lại dùng để mô tả những cá nhân thông tuệ, những người am hiểu các kiến thức mà số đông xem là phức tạp, bí truyền hay sâu rộng”.

Malmstedt dẫn chứng từ “häxa”, hay “phù thủy” trong tiếng Thụy Điển. Cách gọi này vay mượn từ danh xưng “kloka” trong tiếng Đức cổ, nghĩa là “người phụ nữ thần bí” hay “thông tuệ”.

Sự tôn trọng, dè chừng những khái niệm thần bí, thế nhưng, biến mất khi “cơn sốt” săn lùng, xét xử và giết hại nam lẫn nữ giới bị nghi ngờ là phù thủy diễn ra tại châu Âu. Thời điểm làn sóng này lan tới Thụy Điển (từ năm 1668-1676) ước tính đã có hơn 300 người bị xử tử.

Một bản tranh khắc gỗ có từ thế kỉ XVII, họa cảnh “các nữ phù thủy đang giao dịch với Quỷ Satan” – hiện thân của cái ác theo tư tưởng Công giáo. - Ảnh: Alamy
Một bản tranh khắc gỗ có từ thế kỷ XVII, họa cảnh “các nữ phù thủy đang giao dịch với Quỷ Satan” - Ảnh: Alamy

“Rất đông trong số này là phụ nữ bị ép cung, tra tấn để thừa nhận họ là phù thủy. Nguyên nhân đến từ những hành vi họ làm được cho là không phù hợp chuẩn mực xã hội thời ấy” - Malmstedt nói. “Họ bị đẩy lên pháp trường vì niềm tin đã đạt đến mức cực đoan của giới giáo sĩ, quan tòa địa phương. Giới giáo sĩ cho rằng, hành vi sai trái của họ bị dẫn dắt bởi quỷ dữ. Mặc dù chính quyền một số quốc gia châu Âu vẫn nghi ngờ tính xác đáng, thậm chí dã man và hoàn toàn thiếu logic của các vụ xét xử phù thủy”.

Một người Thụy Điển tên Peder Jönsson bị tra khảo và cưỡng ép nhận tội danh thực hành các nghi thức của phù thủy. Khi vừa bị bắt vào nhà giam, Jönsson chỉ bị gán tội “sử dụng trò ma thuật” vì ông có biệt tài tìm ra các món đồ thất lạc giúp những người xung quanh. Jönsson về sau đã sửa lời khai, cố tình thêm vào tình tiết hư cấu hòng đổ lỗi cho một “tồn tại” phi thực. Người đàn ông tiết lộ đã bị một “nữ yêu tinh tà ác, mọc đuôi dài giống đuôi ngựa, có móng vuốt tựa móng lừa, đeo bám và dụ dỗ”.

Tuy nhiên, khác với một số trường hợp như Jönsson - cho lời khai giả vì bị ép buộc, Karin Svensdotter không hề bị kết tội là phù thủy. Trước ngày hầu tòa, bà có triệu chứng co giật kỳ lạ, kèm theo đó là lời khai gây choáng về “7 lần mang thai và sinh nở”, vốn trên thực tế chưa từng xảy ra.

“Đến tận thế kỷ XIX, bên trong nhiều cộng đồng dân cư vùng sâu vùng xa tại châu Âu, các rối loạn liên quan đến tâm thần vẫn lập tức bị quy kết "do quỷ quái hoặc yêu tinh quấy phá" - học giả chuyên ngành văn hóa lịch sử Richard Sugg (Đại học Durham, Anh) nhận định.

“Buổi xét xử một phù thủy” - bức họa nổi tiếng của danh họa người Mỹ Tompkins Harrison Matteson, vẽ năm 1853. - Ảnh: Wikimedia
“Buổi xét xử một phù thủy” - bức họa nổi tiếng của danh họa người Mỹ Tompkins Harrison Matteson, vẽ năm 1853 - Ảnh: Wikimedia

Nói cách khác, thiếu hiểu biết về kiến thức y khoa có thể là nguyên nhân chính khiến các giáo sĩ và quan tòa thời ấy quy kết “yêu tinh” đứng sau sự bất ổn về thể chất lẫn tinh thần của ai đó.

Nữ tác gia sử học, biên tập viên bách khoa thư Mary Ellen Snodgrass đưa ra luận điểm về sự việc kỳ dị liên quan đến Svensdotter: “Là một hầu nữ quanh năm làm nông, giúp việc nhà, sáng tạo một chuyện tình kỳ thú với một tồn tại huyền bí có thể là cách giúp bà ấy vượt qua cảm giác nhàm chán lẫn mệt nhọc khi lao động. Thế nhưng, điều đến nay vẫn khiến chúng tôi thấy khó hiểu là, Svensdotter dường như vô cùng tin tưởng vào góc nhìn của bản thân về những gì đã xảy ra với bản thân, về những đứa con bà cho rằng mình từng thụ thai và sinh ra”.

Rốt cuộc, là ảo tưởng từ cuộc sống nhàm chán, hay ảo giác gây nên bởi một chứng bệnh tâm lý chưa thể định nghĩa khi ấy, đã dẫn đến buổi xử án hoang đường của Svensdotter?

Malmstedt, người nghiên cứu khá nhiều tư liệu về câu chuyện này, nhận xét: “Vụ án Svensdotter nổi tiếng đến mức, suốt thế kỷ XVII, liên tục xuất hiện những tranh luận trái chiều trong cộng đồng Công giáo Thụy Điển. Rất nhiều người tò mò, khó tin nhưng đồng thời khó bác bỏ hoàn toàn lời khai của Svensdotter. Có bao nhiêu chi tiết là thật? Bao nhiêu thuần túy đến từ trí tưởng tượng của người phụ nữ? Phải chăng từng thật sự xuất hiện một tồn tại thần bí, dẫn dắt Svensdotter hành xử kỳ lạ?”.

Năm ấy, tòa phán quyết Svensdotter “bị Quỷ dữ mê hoặc, tạo ảo giác khiến bà lầm đường lạc lối”. Xem người hầu nữ như nạn nhân trong vụ việc là quyết định hiếm thấy, ở thời đại nữ giới có liên hệ tới “ma thuật”, “yêu tinh” thường phải gánh tội danh phù thủy và bị đẩy vào tử cục.

Kế đó, Svensdotter được giáo hội địa phương tổ chức lễ cầu nguyện, như một cách “thanh tẩy” linh hồn bà. Thế nhưng, sử sách không ghi chép thêm chi tiết nào về quãng đời còn lại của người phụ nữ.

Sau thế kỷ XVIII, nhiều bước tiến mới trong các ngành khoa học - công nghệ đã giúp đẩy lùi dần tư duy mê tín. Nhận định nghiêm túc hơn về sức khỏe tâm thần cũng khiến công chúng bắt đầu bài trừ làn sóng “xét xử phù thủy” vô nhân đạo. Ở xã hội Thụy Điển, tuy nhiên, Kuusela ghi nhận rằng một số báo cáo, vụ án liên quan tới “thần rừng/yêu tinh mê hoặc dân chúng” vẫn tồn tại đến tận đầu thế kỷ XX.

Chuyện tình giữa “người và yêu tinh” hoàn toàn phi thực. Tuy nhiên chỉ cách đây vài thế kỷ, “những câu chuyện huyền ảo ấy từng góp phần phản ánh sống động cái nhìn của chúng ta về đức tin, và về chính bảo thân mình” - Kuusela nói.

Như Ý (theo AtlasObscura)

 

news_is_not_ads=
TIN MỚI