 |
Hình vẽ Victor trên bìa cuốn sách của tác giả Roger Shattuck. Ảnh: Wikipedia |
Victor và nghiên cứu thất bại
Theo trang historydefined.net, từng được các vua chúa và học giả khắp thế giới tiến hành, “thí nghiệm bị cấm” nhằm khám phá nguồn gốc ngôn ngữ đã để lại nhiều bi kịch. Những đứa trẻ bị cô lập, bị tước đi ngôn ngữ và sự chăm sóc, cho thấy ranh giới đạo đức mà khoa học không được phép vượt qua.
Nhận thức hiện đại của chúng ta về tâm lý học được xây dựng dựa trên các nghiên cứu và thí nghiệm trước đây. Tuy nhiên, không phải thí nghiệm nào cũng đạt được mục tiêu mang lại thêm kiến thức cho con người.
Thực tế, một số thí nghiệm lại cho thấy điều ngược lại: phương pháp thử nghiệm đôi khi có thể gây hại nhiều hơn là mang lại lợi ích. Những thí nghiệm như vậy cần bị loại bỏ vì lý do đạo đức và luân lý.
Năm 1980, học giả người Mỹ Roger Shattuck đã xuất bản cuốn sách "The Forbidden Experiment" (tạm dịch: Thí nghiệm bị cấm). Cuốn sách là cuộc điều tra về cuộc đời của một cậu bé tên là Victor vùng Aveyron, sống ở Pháp vào thế kỷ 19.
Victor không có gia đình hay người chăm sóc. Cậu sống bên ngoài nền văn minh nhân loại, trở thành đối tượng hiếu kỳ với dân làng Aveyron.
Là một đứa trẻ hoang dã, Victor sống như một con thú. Cậu sống sót nhờ ăn trộm thức ăn từ ruộng và lều của nông dân. Khi dân làng tìm cách bắt cậu, họ sớm phát hiện ra Victor không thể nói tiếng Pháp hay bất kỳ ngôn ngữ nào.
Không lâu sau khi Victor được phát hiện, một tu viện trưởng đồng thời là giáo sư sinh học địa phương, ông Pierre Joseph Bonnaterre, đã kiểm tra cậu bé. Ông cởi quần áo của cậu và dẫn ra ngoài trời tuyết. Trái với kỳ vọng, Victor không hề tỏ ra khó chịu mà còn vui đùa trần truồng giữa tuyết. Ông Bonnaterre cho rằng cậu bé đã quen với tình trạng này và quen với giá lạnh.
Ủy viên chính quyền địa phương, ông Constans-Saint-Esteve, cũng quan sát cậu bé và viết rằng có một điều gì đó kỳ lạ trong hành vi của cậu, khiến cậu có vẻ gần với trạng thái của loài thú hoang.
Sau đó, Victor được đưa đến thị trấn Rodez. Tại đây, hai người đàn ông đều đã mất con trai trong Cách mạng Pháp đã tìm đến để xác nhận xem liệu Victor có phải là con trai đã mất của họ hay không. Tuy nhiên, không ai trong số họ nhận cậu bé.
Người ta cho rằng Victor đã sống hoàn toàn cô lập từ khoảng năm lên bốn hoặc năm cho đến khi khoảng 12 tuổi, là độ tuổi có thể cậu đã bị bắt tại khu rừng Caune. Điều đó có nghĩa là cậu bé có thể đã sống trong môi trường hoang dã suốt bảy năm.
Mặc dù rõ ràng Victor nghe được, nhưng cậu vẫn được đưa đến Viện Quốc gia dành cho người điếc ở Paris để phục vụ cho nghiên cứu của nhà giáo dục nổi tiếng Roch-Ambroise Cucurron Sicard.
Ông Sicard cùng các thành viên của Hiệp hội Người Quan sát Con người tin rằng việc vừa nghiên cứu vừa giáo dục cậu bé sẽ giúp họ tìm ra bằng chứng cho thuyết kinh nghiệm – một lý thuyết tri thức đang trở nên phổ biến khi đó.
Trong bối cảnh thời kỳ Khai sáng, khi giới trí thức tranh luận về điều gì phân biệt con người với loài vật và một trong những yếu tố then chốt là khả năng học ngôn ngữ.
Việc nghiên cứu cậu bé cũng được kỳ vọng giúp làm sáng tỏ mối quan hệ giữa con người và xã hội.
Dù đã được tiếp xúc với xã hội và giáo dục, nhưng Victor vẫn hầu như không có tiến bộ tại cơ sở do ông Sicard quản lý. Nhiều người nghi ngờ khả năng học tập của cậu do tình trạng ban đầu.
Sau khi ông Sicard trở nên thất vọng khi cậu bé thiếu tiến triển, Victor được để mặc tự do đi lại trong cơ sở đó, cho đến khi sinh viên y khoa trẻ tuổi tên là Jean Marc Gaspard Itard quyết định đưa cậu về nhà riêng để theo dõi sự phát triển và viết báo cáo.
Itard tin rằng có hai điều phân biệt con người với loài vật: sự đồng cảm và ngôn ngữ. Anh muốn “khai hóa” Victor với mục tiêu dạy cậu biết nói và biết biểu đạt cảm xúc như con người.
Ban đầu, Victor có tiến bộ rõ rệt trong hiểu ngôn ngữ và đọc được các từ đơn giản, nhưng không thể vượt qua mức độ sơ khai. Itard viết: “Trong hoàn cảnh này, tai cậu bé không phải là cơ quan để cảm nhận âm thanh, cách phát âm hay kết hợp cả hai điều này. Tai chỉ đơn thuần là một phương tiện tự bảo vệ, giúp cảnh báo khi có thú dữ đến gần hay khi trái cây rừng rơi xuống”.
Hai cụm từ duy nhất mà Victor thực sự học đánh vần được là lait (sữa) và Oh, Dieu (Lạy Chúa).
Mặc dù Victor không học được cách nói ngôn ngữ mà Itard cố truyền đạt, nhưng dường như cậu đã có tiến bộ trong hành vi đối với người khác. Một buổi tối tại nhà Itard, người quản gia tên là bà Guérin đang dọn bàn ăn thì bật khóc vì thương nhớ người chồng đã khuất. Victor đã dừng việc mình đang làm và thể hiện hành vi an ủi bà. Itard đã ghi lại sự tiến bộ này trong báo cáo.
Trong sáu năm, Itard đã cố dạy Victor cách nói, nhưng mọi nỗ lực đều vô ích. Khi đã rõ ràng rằng cậu bé sẽ không bao giờ có thể giao tiếp ngoài vài dấu hiệu cơ bản và tiếng gầm gừ, Victor được giao cho một người giám hộ vào năm 1806. Victor qua đời vì viêm phổi khi 40 tuổi.
Cuốn "The Forbidden Experiment" của Shattuck đã phân tích câu chuyện của Victor và những câu hỏi cuốn sách này đặt ra trong các lĩnh vực tâm lý học, giáo dục và phát triển trí tuệ. Nhiều câu hỏi trong sách vẫn còn nguyên giá trị đến ngày nay.
Ví dụ, chuyện gì xảy ra nếu một đứa trẻ không được xã hội hóa? Trẻ em học ngôn ngữ như thế nào? Liệu có thể dạy dỗ một đứa trẻ mà không có ngôn ngữ không? Câu chuyện về Victor cho thấy không có câu trả lời dễ dàng nào cho những câu hỏi ấy.
Xét trên nhiều phương diện, Victor là đối tượng nghiên cứu lý tưởng. Cậu hoàn toàn xa lạ với tương tác con người và thiếu kỹ năng ngôn ngữ cơ bản. Tuy nhiên, bất chấp nỗ lực bền bỉ của những chuyên gia như Itard, kết quả lại không thuyết phục.
Kết luận duy nhất mà ông Shattuck có thể rút ra là: không thể nghiên cứu một trường hợp như Victor trong điều kiện có kiểm soát.
Để tái tạo hoàn cảnh của Victor, các nhà nghiên cứu cần phải tước bỏ khỏi đứa trẻ những yếu tố cơ bản tạo nên con người như khả năng tương tác, học hỏi và sẻ chia với đồng loại. Đó là lý do vì sao Shattuck gọi nghiên cứu về tước đoạt ngôn ngữ ở trẻ em là “thí nghiệm bị cấm”.
Thực hiện “thí nghiệm bị cấm” đồng nghĩa với việc chà đạp lên quyền con người của đối tượng. Trong lịch sử từng ghi nhận một vài trường hợp trẻ em như Victor, tức là không có kỹ năng xã hội hoặc ngôn ngữ, nhưng những trường hợp đó rất hiếm. Dù thí nghiệm này có thể hấp dẫn đến đâu, sự tàn nhẫn vốn có của nó vẫn khiến người ta phải kết luận rằng nghiên cứu như vậy cần bị cấm vĩnh viễn.
Những đứa trẻ bị tước đoạt ngôn ngữ
 |
Ảnh minh họa: historydefined.net |
Theo trang historydefined.net, vào năm 1970, nhà chức trách Los Angeles phát hiện một bé gái tên là Genie. Cô bé bị nhốt biệt lập trong một căn phòng tại nhà cha mẹ.
Dù các nỗ lực phục hồi chức năng diễn ra khi cô bé 13 tuổi, nhưng Genie không bao giờ có thể làm chủ được ngôn ngữ. Cuối cùng, cô bé được đưa vào hệ thống nuôi dưỡng của bang.
Những đứa trẻ như Victor và Genie cho thấy xã hội hóa và giáo dục là điều sống còn đối với trẻ em. Tước đoạt những trải nghiệm đó chẳng khác gì lạm dụng.
Không điều gì có thể biện minh cho việc cố tình tạo ra điều kiện giống như “thí nghiệm bị cấm”, kể cả vì sự phát triển của tri thức. Cái giá phải trả vì vượt ranh giới đạo đức và luân lý là quá lớn.
Hiện nay, chúng ta đã hiểu rõ hơn nhiều về tâm lý học so với thời điểm Victor bị bắt. Giờ đây, người ta đã bác bỏ cuộc tranh luận “bản năng hay môi trường” trong tâm lý học trẻ em. Thay vào đó, chính sự kết hợp giữa hai yếu tố này mới giúp trẻ phát triển toàn diện.
Giáo sư thần kinh học Rebecca Saxe tại trường Viện Công nghệ Massachusetts viết rằng: “Một môi trường xã hội có sự hiện diện của con người chắc chắn sẽ tự nhiên hơn với một đứa trẻ sơ sinh so với bất kỳ môi trường nhân tạo nào. Ngay cả việc phát triển những đặc điểm bẩm sinh ở con người cũng cần có môi trường xã hội”.
Ngày nay, giới nghiên cứu đã nhận thức được các hệ lụy đạo đức của thí nghiệm bị cấm. Nhưng trước đây, không có rào cản nào ngăn các học giả đi quá xa khi họ tìm kiếm tri thức mà họ tin là có giá trị.
Các thí nghiệm tước đoạt ngôn ngữ đã từng diễn ra nhiều lần trong lịch sử, không chỉ với những trường hợp tự nhiên như Victor hay Genie. Có ít nhất bốn trường hợp “thí nghiệm bị cấm” được thực hiện theo sắc lệnh của vua chúa.
Psamtik I
Vào khoảng năm 600 trước Công nguyên, người ta đã quan tâm đến kết quả của thí nghiệm tước đoạt ngôn ngữ. Nhà chép sử Herodotus của Hy Lạp ghi lại rằng Pharaoh Psamtik I của Ai Cập từng tìm cách xác định xem ngôn ngữ nào có trước: tiếng Ai Cập hay tiếng Phrygia (một ngôn ngữ ở Anatolia).
Ông ra lệnh giao hai đứa trẻ sơ sinh cho một người chăn cừu nuôi, cấm người nuôi nói chuyện với chúng. Pharaoh tin rằng hai đứa trẻ sẽ tự phát triển ngôn ngữ và ngôn ngữ mà chúng nói sẽ là ngôn ngữ lâu đời nhất.
Nhà chép sử Herodotus không nói rõ người chăn cừu đã chăm sóc hai đứa trẻ trong bao lâu, hay cuộc sống của chúng sau đó ra sao. Dù Psamtik I cho rằng mình đã tìm ra câu trả lời cho câu hỏi đặt ra, nhưng tính xác thực của kết luận đó vẫn còn nhiều nghi vấn.
Psamtik I kết luận rằng tiếng Phrygia có trước tiếng Ai Cập. Cơ sở của ông là một trong hai đứa trẻ đã phát ra từ “becos”, nghĩa là “bánh mì” trong tiếng Phrygia.
Tuy nhiên, đây là một cách lý giải thiếu cơ sở khoa học, vì nhiều khả năng Psamtik I chỉ đơn giản đã hiểu nhầm tiếng bập bẹ vô nghĩa của trẻ nhỏ.
Frederik II
Hoàng đế La Mã Thần thánh Frederik II, trị vì vào thế kỷ 13, tin rằng con người có một ngôn ngữ tự nhiên, ngôn ngữ mà Thượng đế ban cho, thứ tiếng mà Adam và Eva từng nói trong Vườn Địa Đàng.
Thời đó, tôn giáo và khoa học gắn bó chặt chẽ. Frederik II tin rằng trẻ em lớn lên không có ai nói chuyện sẽ tự nhiên bắt đầu nói thứ ngôn ngữ thiêng liêng này.
Nỗ lực tìm kiếm ngôn ngữ tự nhiên của Frederik II được tu sĩ người Italy tên là Salembene di Adam ghi lại trong tác phẩm "Cronica", nghĩa là “Biên niên sử”.
Ông viết rằng Frederik II tin trẻ em có khả năng tự nhiên nói tiếng Hebrew, Hy Lạp hoặc Latinh, ngay cả khi không có người lớn dạy.
Tất nhiên, những đứa trẻ tham gia thí nghiệm tước đoạt ngôn ngữ của Frederik II không hề có kỹ năng ngôn ngữ bẩm sinh nào như vậy. Tác phẩm "Cronica" ghi lại rằng những đứa trẻ ấy đã chết do thiếu chăm sóc. Kết cục này một lần nữa cho thấy vì sao không bao giờ nên thực hiện “thí nghiệm bị cấm”.
James IV của Scotland
Thời kỳ Phục Hưng là giai đoạn châu Âu chứng kiến sự hồi sinh mạnh mẽ của nghệ thuật và khoa học. Trong giai đoạn này, Vua James IV của Scotland, một người thông thạo tám thứ tiếng, đã ra lệnh tiến hành “thí nghiệm bị cấm”. Ông muốn khám phá nguồn gốc của ngôn ngữ trong loài người.
Ông giao hai đứa trẻ sơ sinh cho một phụ nữ câm điếc và đưa họ đến sống trên đảo hoang Inchkeith.
Theo tác phẩm "Historie and Chronicles of Scotland" của sử gia Robert Lindsay of Pitscottie được viết một thế kỷ sau đó, hai đứa trẻ nói trên đã học nói tiếng Hebrew. Tuy nhiên, vì không có ghi chép cùng thời, nên thông tin này khó được xác thực.
Akbar Đại đế
Hoàng đế Mughal Akbar Đại đế, trị vì tiểu lục địa Ấn Độ thế kỷ 16, nổi tiếng vì sự tò mò. Ông muốn tìm hiểu cách thế giới vận hành và điều đó đã khiến ông tiến hành phiên bản riêng của “thí nghiệm bị cấm”.
Ông tin rằng ngôn ngữ là một hành vi học được chứ không phải bẩm sinh. Thí nghiệm tước đoạt ngôn ngữ của ông nhằm chứng minh giả thuyết đó.
Trong các tác phẩm Akbarnama, Dabestan-e-Mazaheb và Montaḵab al-Tawārīḵ, người ta ghi lại rằng Akbar giao 12 trẻ sơ sinh cho các vú nuôi câm để nuôi tại một nơi gọi là “Cung điện của người câm”. Sau nhiều năm, Akbar đến kiểm tra và nhận thấy kết quả đúng như dự đoán: không ai dạy ngôn ngữ, nên bọn trẻ cũng câm lặng như các vú nuôi.
Mỗi trường hợp “thí nghiệm bị cấm” được ghi lại đều để lại hậu quả tiêu cực cho sự phát triển của đứa trẻ. Điều đó chứng minh rằng thí nghiệm này bị cấm là hoàn toàn chính đáng. Nó cũng khẳng định: xã hội hóa là điều cần thiết cho con người không kém gì thức ăn hay chỗ ở.
Theo TTXVN