Làm sao để nâng vị thế phụ nữ Việt trong khoa học? Bài 2: Khoảng trống chính sách và định kiến vô hình

25/08/2025 - 06:02

PNO - Hành trình của các nhà khoa học nữ không chỉ là nỗ lực chuyên môn mà còn là cuộc đấu tranh thầm lặng với định kiến giới. Nhưng họ vẫn không ngừng tiến bước...

LTS: Dù chiếm gần một nửa lực lượng nghiên cứu khoa học ở nhiều địa phương, nhưng phụ nữ vẫn là nhóm thiểu số ở các vị trí lãnh đạo nghiên cứu, chủ nhiệm đề tài hoặc hoạch định chính sách khoa học - công nghệ. Trong bối cảnh Việt Nam đặt mục tiêu đột phá về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo theo Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị, yêu cầu về bình đẳng giới trong khoa học không còn là vấn đề riêng của phụ nữ, mà là yêu cầu chiến lược để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, tận dụng toàn diện nội lực trí tuệ quốc gia.

Bài 1: Tài năng không thiếu nhưng rào cản cũng còn nhiều

Từ những lớp học ngành kỹ thuật với phần lớn là nam đến các phòng thí nghiệm nơi áp lực luôn hiện diện, hành trình của các nhà khoa học nữ không chỉ là nỗ lực chuyên môn mà còn là cuộc đấu tranh thầm lặng với định kiến giới. Nhưng họ vẫn không ngừng tiến bước, bằng trí tuệ, sự bền bỉ và niềm đam mê khoa học.

Không ngại dấn thân vào ngành khoa học kỹ thuật

Phạm Vũ Huyền Trang (23 tuổi, tỉnh Ninh Bình) là một trong những gương mặt trẻ nổi bật trong lĩnh vực khoa học dữ liệu và trí tuệ nhân tạo (AI). Chị tốt nghiệp xuất sắc ngành khoa học dữ liệu và AI tại Đại học Bách khoa Hà Nội với GPA 3.81/4.0, đồng thời nhận học bổng tiến sĩ toàn phần trị giá hơn 10 tỉ đồng tại Đại học Texas - Austin (Mỹ).

Giáo sư Đặng Thu Hương và con gái nhỏ trong ngày cô nhận bằng tốt nghiệp tiến sĩ năm 2022 tại Trường Quản lý Lancaster, Anh quốc - Ảnh do nhân vật cung cấp
Giáo sư Đặng Thu Hương và con gái nhỏ trong ngày cô nhận bằng tốt nghiệp tiến sĩ năm 2022 tại Trường Quản lý Lancaster, Anh quốc - Ảnh do nhân vật cung cấp

Niềm đam mê với AI đến khi Trang tình cờ tìm hiểu về khả năng ứng dụng công nghệ này trong phân tích hình ảnh y khoa - một hướng đi tiềm năng giúp bác sĩ chẩn đoán sớm và giảm tải hệ thống y tế. Thế nhưng, hành trình theo đuổi một ngành học còn khá mới với nữ giới chưa bao giờ dễ dàng. Thời đại học, Trang đã phải làm quen với việc là một trong số ít nữ sinh trong lớp. “Lúc đi học, tôi ngại phát biểu vì cảm thấy mình khác biệt. Đi làm rồi, số lượng nữ giới trong ngành còn ít hơn” - Huyền Trang kể.

Không chỉ cảm thấy đơn độc giữa môi trường nam giới chiếm ưu thế, chị còn đối mặt với nhiều định kiến. Chị chia sẻ: “Có người hỏi tôi: Học AI rồi lấy chồng sinh con thì còn làm nổi nữa không? Những lời nói tưởng như vô hại ấy khiến tôi chạnh lòng. Nhưng sau này, tôi hiểu rằng, chính năng lực và sự bền bỉ mới là điều quyết định con đường mình có đi xa được không”.

Không chỉ riêng Huyền Trang, con đường nghiên cứu cũng đầy thử thách với tiến sĩ Nguyễn Cao Thùy Giang (29 tuổi), tốt nghiệp xuất sắc ngành công nghệ sinh học Trường đại học Cần Thơ, hiện đang làm việc tại Mỹ trong lĩnh vực BioNano Engineering - chuyên nghiên cứu vật liệu dẫn thuốc điều trị ung thư.

Từ những năm đầu đại học, Giang đã bị cuốn hút bởi công nghệ bionano - lĩnh vực mới mẻ nhưng đầy tiềm năng. Tuy nhiên, bước ra khỏi Việt Nam, chị mới cảm nhận rõ khoảng cách về thiết bị, phương pháp, nhịp độ làm việc giữa môi trường nghiên cứu trong nước và quốc tế. “Phải mất nhiều thời gian để mình thích nghi với môi trường mới - nơi mọi thứ thay đổi nhanh chóng và áp lực cập nhật kiến thức là không ngừng nghỉ” - tiến sĩ Nguyễn Cao Thùy Giang nói.

Chị từng có những tháng ngày miệt mài trong phòng thí nghiệm, thực hiện các chuỗi thí nghiệm kéo dài đến kiệt sức. “Cũng có lúc tôi muốn buông xuôi, nhưng mỗi lần nghĩ đến ý nghĩa của những kết quả nghiên cứu dù thành công hay thất bại, tôi lại có thêm động lực. Sự hỗ trợ từ thầy cô, bạn bè cũng giúp tôi không bỏ cuộc” - chị kể. 8 năm sống xa nhà để theo đuổi học thuật là một sự đánh đổi lớn.

Ngay cả ở những quốc gia được đánh giá cao về bình đẳng giới như Anh, định kiến vẫn hiện diện. Giáo sư Đặng Thu Hương - hiện giảng dạy khoa học quản lý tại Trường Quản lý Lancaster (Đại học Lancaster, Vương quốc Anh) - chia sẻ: “Một lần, tôi giải thích rất chi tiết cho sinh viên một phần trong môn học. Nhưng cuối buổi, em ấy hỏi lại: Cô là trợ giảng ạ? Câu hỏi tưởng chừng vô hại, nhưng ẩn sau đó là một định kiến: Những người giảng dạy các môn thiên về kỹ thuật, phân tích thường sẽ là nam giới. Có thể thấy cách nhìn nhận về vai trò giới vẫn còn ăn sâu, kể cả ở những nền giáo dục tiên tiến”.

Tháo gỡ rào cản giới trong nghiên cứu khoa học

Tiến sĩ Nguyễn Cao Thùy Giang bày tỏ: “1, 2 công trình có giá trị và ứng dụng thực tiễn còn quý hơn hàng trăm công bố chỉ để lấy số liệu. Phụ nữ có thế mạnh ở sự tỉ mỉ, khéo léo, điều đó giúp họ đôi khi thể hiện tốt hơn cả nam giới trong một số thí nghiệm. Vì vậy, để nhìn nhận đúng năng lực, cần đánh giá cả quá trình và ý nghĩa thực sự của công việc họ làm, thay vì chỉ nhìn vào những con số”.

Tiến sĩ Nguyễn Cao Thùy Giang hiện là nghiên cứu viên sau tiến sĩ kiêm trợ lý giáo sư tại Đại học Massachusetts (Mỹ), chuyên nghiên cứu về vật liệu dẫn thuốc điều trị ung thư não - Ảnh do nhân vật cung cấp
Tiến sĩ Nguyễn Cao Thùy Giang hiện là nghiên cứu viên sau tiến sĩ kiêm trợ lý giáo sư tại Đại học Massachusetts (Mỹ), chuyên nghiên cứu về vật liệu dẫn thuốc điều trị ung thư não - Ảnh do nhân vật cung cấp

Bàn về chuyện cân bằng giữa sự nghiệp và gia đình, chị Thùy Giang thẳng thắn nói: “Không dễ để làm tốt cả hai cùng lúc. Xã hội mong phụ nữ giỏi việc nước, gia đình lại muốn họ chu toàn việc nhà. Nhưng tôi tin rằng, nếu biết sắp xếp thời gian hợp lý, giữ tinh thần lạc quan và biết nhờ đến sự hỗ trợ từ chồng, gia đình, bạn bè, phụ nữ hoàn toàn có thể dung hòa”.

Từ kinh nghiệm cá nhân, cô Đặng Thu Hương cho rằng, Việt Nam có thể học hỏi mô hình mentorship - kết nối giữa các nhà khoa học nữ có kinh nghiệm và thế hệ trẻ nhằm chia sẻ, đồng hành và giúp phụ nữ vượt qua áp lực kép nghiên cứu và gia đình. Việc xây dựng các chính sách riêng để hỗ trợ phụ nữ làm nghiên cứu khoa học là điều rất cần thiết. Không phải vì phụ nữ yếu thế hay cần được ưu ái, mà bởi họ đang đối mặt với những bất bình đẳng vốn tồn tại một cách tự nhiên trong cuộc sống và sự nghiệp học thuật.

Theo cô Doãn Thị Ngọc - nhà sáng lập Gendertalk (hoạt động học thuật về giới và bình đẳng giới), giảng viên bộ môn giáo dục khai phóng, Trường đại học Hoa Sen - định kiến giới đã thấm sâu vào nhận thức, hành vi và cả tiềm thức qua nhiều năm. Những khuôn mẫu vô thức như “phụ nữ không nên học cao”, “phụ nữ không hợp ngành kỹ thuật” vẫn len lỏi trong đời sống, từ gia đình, nhà trường đến truyền thông đại chúng, tạo nên khoảng trống trong chính sách khi đánh giá và phát triển nhân lực nữ trong lĩnh vực khoa học - công nghệ.

Hiện nay, dù số lượng nhà nghiên cứu nữ đang tăng lên và có nhiều đóng góp đáng kể, tỉ lệ phụ nữ đứng tên chủ trì các đề tài khoa học cấp Nhà nước vẫn chỉ khoảng 19% (theo số liệu năm 2022). Một phần nguyên nhân đến từ hệ tiêu chí xét duyệt đề tài hiện hành vốn thiên về định lượng, yêu cầu công bố quốc tế, chuyển giao sản phẩm hoặc thương mại hóa. Những tiêu chí này vô hình trung gây khó khăn cho nhà khoa học nữ, nhất là khi họ phải tạm ngưng nghiên cứu vì sinh con, chăm sóc gia đình, hoặc thiếu điều kiện để theo đuổi các công trình quy mô lớn.

Ngoài giải thưởng Kovalevskaia, Việt Nam hiện chưa có nhiều cơ chế khen thưởng dành riêng cho nữ giới trong nghiên cứu. Trong khi đó, vẫn có rất nhiều nhà khoa học nữ thầm lặng đóng góp, như phó giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Thị Trâm, nghiên cứu thành công hàng chục giống lúa lai giá trị cao. Hay giáo sư, tiến sĩ Lê Mai Hương - nhà khoa học của các sản phẩm từ hợp chất thiên nhiên (nguyên Viện phó Viện Hóa học các hợp chất thiên nhiên, Viện hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam) - nhưng chưa được truyền thông tôn vinh đúng mức.

Để phụ nữ thật sự có cơ hội phát triển công bằng, cô Doãn Thị Ngọc nhấn mạnh cần có những điều chỉnh mạnh mẽ về chính sách: đưa giáo dục bình đẳng giới vào học đường, cải cách giáo dục STEAM theo hướng đa dạng giới, hình thành quỹ nghiên cứu riêng cho nữ, tạo môi trường học thuật linh hoạt và đặc biệt, xây dựng các cơ chế hỗ trợ nhà khoa học nữ trong giai đoạn thai sản, nuôi con nhỏ. “Chỉ khi những khoảng trống về giới được nhìn nhận và bù đắp, thì sự đóng góp của nữ giới trong khoa học mới thật sự được phát huy toàn diện” - cô nhấn mạnh.

3 đề xuất hỗ trợ phụ nữ phát triển sự nghiệp khoa học

Từ trải nghiệm cá nhân và quan sát môi trường học thuật quốc tế, cô Đặng Thu Hương đề xuất một số hướng đi nhằm hỗ trợ phụ nữ phát triển sự nghiệp khoa học một cách bền vững:

- Tái khởi động sự nghiệp sau gián đoạn: Cần có các chương trình tài trợ riêng dành cho nhà khoa học nữ quay lại công việc sau thời gian nghỉ sinh, chăm sóc con nhỏ đi kèm chính sách giảm tải giảng dạy, linh hoạt giờ làm để giúp họ cân bằng lại cuộc sống.

- Phát triển hệ thống cố vấn cho nữ giới: Mạng lưới cố vấn giữa các thế hệ nhà khoa học nữ không chỉ giúp chia sẻ chuyên môn mà còn là nơi đồng hành, hỗ trợ định hướng sự nghiệp và phát triển cá nhân - một mô hình đã chứng minh hiệu quả tại nhiều quốc gia.

- Thay đổi định kiến trong học thuật: Phụ nữ thường bị đánh giá kém năng suất nếu có giai đoạn gián đoạn hoặc phải nỗ lực gấp đôi để được nhìn nhận ngang hàng. Do đó, việc nâng cao nhận thức về bình đẳng giới trong tuyển chọn, đánh giá và lãnh đạo là yếu tố then chốt.

Phụ nữ khi được tạo điều kiện phát triển trong học thuật không chỉ mang lại giá trị cá nhân, mà còn giúp khoa học trở nên đa dạng, nhân văn và toàn diện hơn.

Thanh Tâm

Kỳ cuối: Xây hệ sinh thái bao trùm để phụ nữ là chủ thể sáng tạo

 

news_is_not_ads=
TIN MỚI