Làm sao để nâng vị thế phụ nữ Việt trong khoa học? - Bài 1: Tài năng không thiếu nhưng rào cản cũng còn nhiều

22/08/2025 - 06:28

PNO - Nghiên cứu khoa học vốn đã là một công việc khó khăn, đòi hỏi nhiều công sức và sự kiên trì. Với phụ nữ, hành trình ấy thường gian nan hơn...

LTS: Dù chiếm gần một nửa lực lượng nghiên cứu khoa học ở nhiều địa phương, nhưng phụ nữ vẫn là nhóm thiểu số ở các vị trí lãnh đạo nghiên cứu, chủ nhiệm đề tài hoặc hoạch định chính sách khoa học - công nghệ. Trong bối cảnh Việt Nam đặt mục tiêu đột phá về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo theo Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị, yêu cầu về bình đẳng giới trong khoa học không còn là vấn đề riêng của phụ nữ, mà là yêu cầu chiến lược để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, tận dụng toàn diện nội lực trí tuệ quốc gia.

Sáng sớm, cô sinh viên năm 3 Võ Yến Oanh (Khoa Quản lý văn hóa - nghệ thuật, Trường đại học Văn hóa TPHCM) đã có mặt trên chuyến phà để đến với xã đảo Thạnh An, TPHCM. Nơi đây đã trở thành “phòng thí nghiệm thực tế” cho đề tài nghiên cứu “Bảo vệ môi trường và phát triển văn hóa sinh kế của người dân xã đảo” mà cô thực hiện gần 3 năm qua.

Khó khăn của nữ khi làm nghiên cứu

Những chuyến đi khảo sát của Oanh và cộng sự thường kéo dài vài ngày. Đợt ra xã đảo, Oanh thường xin ở lại nhà dân. Có ngày, cô theo bà con đi bắt hàu, có ngày thì theo tàu ngư dân đánh bắt gần bờ. Mỗi câu chuyện, mỗi thông tin thu thập đều được Oanh ghi chép cẩn thận.

Phó giáo sư, tiến sĩ Phan Thị Hồng Xuân (thứ ba từ phải qua) tại một hội thảo khoa học quốc tế
Phó giáo sư, tiến sĩ Phan Thị Hồng Xuân (thứ ba từ phải qua) tại một hội thảo khoa học quốc tế

Ở trường, Oanh còn tích cực tham gia các dự án nghiên cứu chung với thầy cô. Oanh cũng là thành viên chủ chốt trong Câu lạc bộ Sinh viên nghiên cứu khoa học của khoa. Câu lạc bộ có 64 thành viên, đang thực hiện khoảng 8 đề tài nghiên cứu. Trong đó, đề tài của Oanh được các giảng viên hướng dẫn hoàn thiện, chuẩn bị tham gia giải thưởng Sinh viên nghiên cứu khoa học Euréka lần thứ 27. Cô chia sẻ: “Nữ thường nhẹ nhàng, dễ tạo thiện cảm với người dân, nên việc tiếp cận thuận lợi hơn. Nhưng đi xa hay những việc cần nhiều sức lực rõ ràng vẫn cần sự hỗ trợ của bạn nam đi cùng”.

Tiến sĩ Nguyễn Hồ Phong - giảng viên Khoa Quản lý văn hóa - nghệ thuật, Trường đại học Văn hóa TPHCM, đồng thời là Chủ nhiệm Câu lạc bộ Sinh viên nghiên cứu khoa học của khoa - chia sẻ: “Nghiên cứu khoa học vốn đã là một công việc khó khăn, đòi hỏi nhiều công sức và sự kiên trì. Với phụ nữ, hành trình ấy thường gian nan hơn do những đặc điểm sinh học, áp lực xã hội và đặc biệt là những định kiến giới vẫn tồn tại”.

Ông phân tích, ngoài công việc chuyên môn tại cơ quan, phần lớn phụ nữ còn gánh vác vai trò của một người vợ, người mẹ, người con trong gia đình. Trách nhiệm chồng chéo khiến họ bị phân tán thời gian, giảm mức độ tập trung, đầu tư cho nghiên cứu khoa học. Trong các chuyến đi điền dã, thực địa - hoạt động thường xuyên trong nghiên cứu khoa học - nữ cũng dễ đối diện với rủi ro hơn nam...

Phó giáo sư, tiến sĩ Phan Thị Hồng Xuân - Viện trưởng Viện Nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn, Trường đại học Khoa học xã hội và nhân văn (Đại học Quốc gia TPHCM) - cho biết, bản thân bà từng chịu nhiều áp lực cả về thể chất lẫn tinh thần khi tham gia một đề tài nghiên cứu liên ngành tại Ấn Độ. Bà đã tham gia khảo sát thực địa tại nhiều nơi trong thời tiết khắc nghiệt, hạ tầng hạn chế và những khác biệt về văn hóa, ngôn ngữ… May mắn, nhờ sự hỗ trợ của đồng nghiệp, sự động viên của gia đình và quyết tâm cao, đề tài của bà đã hoàn thành đúng hạn.

Xây dựng mạng lưới hỗ trợ và cố vấn mạnh mẽ

Từ kinh nghiệm thực tế của mình, bà Phan Thị Hồng Xuân cho rằng, phụ nữ vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức trong khoa học và công nghệ, đặc biệt trong các lĩnh vực đòi hỏi cường độ nghiên cứu cao như công nghệ thông tin. Đó là áp lực về thời gian và vai trò đa nhiệm khiến các nhà khoa học nữ vừa phải gánh vác trách nhiệm gia đình, vừa hoàn thành công việc chuyên môn, dẫn đến quỹ thời gian dành cho nghiên cứu bị thu hẹp. Năng lực lãnh đạo và khả năng đảm nhận các dự án lớn của phụ nữ cũng chưa được nhìn nhận đầy đủ.

Phó giáo sư, tiến sĩ Mai Huỳnh Cang (đứng hàng đầu) - Trường đại học Nông Lâm TPHCM - hướng dẫn nhóm sinh viên Khoa Công nghệ hóa học và thực phẩm của trường tham gia nghiên cứu khoa học - ẢNH: NGUYỄN LOAN
Phó giáo sư, tiến sĩ Mai Huỳnh Cang (đứng hàng đầu) - Trường đại học Nông Lâm TPHCM - hướng dẫn nhóm sinh viên Khoa Công nghệ hóa học và thực phẩm của trường tham gia nghiên cứu khoa học - Ảnh: Nguyễn Loan

Sức khỏe và thiên chức làm mẹ cũng là yếu tố tạo áp lực, nhất là khi giai đoạn mang thai, sinh con, nuôi con nhỏ thường trùng với thời điểm cần tập trung phát triển sự nghiệp. Ngoài ra, hạn chế trong tiếp cận nguồn lực, mạng lưới hợp tác quốc tế, cùng khác biệt về văn hóa, ngôn ngữ khi làm việc trong môi trường đa quốc gia cũng trở thành rào cản đáng kể, đặc biệt đối với các nghiên cứu liên ngành hoặc dự án hợp tác quốc tế.

Nữ làm chủ nhiệm nhiệm vụ khoa học và công nghệ chỉ chiếm 25,5%

Theo số liệu từ Cục Thông tin khoa học và Công nghệ quốc gia, trong 11 năm qua, số lượng nhà khoa học nữ Việt Nam tăng từ 56.846 người (chiếm 44%) năm 2013 lên 79.078 người (46%) năm 2023. Tuy nhiên, số lượng nữ giới làm chủ nhiệm nhiệm vụ khoa học và công nghệ chỉ chiếm 25,5%. Điều này cho thấy cần có chính sách đặc thù để khuyến khích và tạo cơ hội cho phụ nữ đảm nhiệm vai trò lãnh đạo dự án.

Để vượt qua những rào cản nói trên, bà Phan Thị Hồng Xuân cho rằng phụ nữ cần chủ động nâng cao năng lực chuyên môn và kỹ năng quản lý dự án, khẳng định giá trị bản thân bằng những kết quả cụ thể. Xây dựng mạng lưới hỗ trợ từ gia đình, bạn bè và đồng nghiệp để san sẻ trách nhiệm, tạo điều kiện tập trung cho nghiên cứu. Đồng thời, các chị cần tận dụng các chính sách ưu tiên và chương trình hỗ trợ dành cho các nhà khoa học nữ, mạnh dạn ứng cử và tham gia các đề tài quy mô lớn. Trên tất cả, các chị phải gìn giữ sức khỏe, cân bằng tâm lý. Đây là nền tảng để có thể đi đường dài trong sự nghiệp nghiên cứu.

Thạc sĩ Lê Thị Khánh Vân - nguyên Phó cục trưởng Cục Thông tin khoa học và Công nghệ quốc gia - đánh giá: “Nhiều kết quả nghiên cứu của phụ nữ có giá trị kinh tế cao, tuy nhiên chưa được thương mại hóa do rào cản thị trường, định kiến giới và áp lực cân bằng giữa nghiên cứu và đời sống gia đình”.

Chính vì vậy, bà cho rằng, để nữ trí thức phát triển sự nghiệp, cần thực hiện bình đẳng giới thực chất trong các tổ chức khoa học và công nghệ từ tuyển dụng đến bổ nhiệm; xây dựng mạng lưới hỗ trợ và cố vấn mạnh mẽ; mở rộng học bổng quốc gia dành riêng cho nữ sinh theo học ngành STEM; hoàn thiện chính sách đãi ngộ xứng đáng cho nhà khoa học; thúc đẩy hợp tác giữa các viện nghiên cứu và doanh nghiệp, cũng như tăng cường hợp tác quốc tế.

Cần hoàn thiện cơ chế chính sách về phát triển nhân lực nữ khoa học và công nghệ

Tại hội thảo “Khoa học và công nghệ vì sự phát triển bền vững” do Hội Nữ trí thức Việt Nam và Hội Nữ trí thức TPHCM tổ chức vào cuối tháng Bảy vừa qua, phó giáo sư, tiến sĩ Lê Thị Kim Oanh - Trưởng khoa Môi trường, Trưởng phòng Phát triển nghiên cứu khoa học, Trường đại học Văn Lang - cho biết: giai đoạn trước thập niên 1990, tỉ lệ nữ giới trong các ngành kỹ thuật và công nghệ còn rất khiêm tốn, chỉ chiếm khoảng 5 - 10% tổng số sinh viên tại các trường đại học khoa học, kỹ thuật. Nhưng hiện nay, con số này đã thay đổi đáng kể.

Riêng Trường đại học Bách khoa (Đại học Quốc gia TPHCM) năm học 2022-2023, tỉ lệ sinh viên nữ nhập học là 22%, cao nhất trong lịch sử 65 năm thành lập. Nhiều ngành công nghệ cao như trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data), kỹ thuật y sinh, robot và tự động hóa cũng bắt đầu thu hút mạnh mẽ nữ sinh.

Hiện nay, đội ngũ nữ giảng viên có thể lên đến 30 - 40% tổng số giảng viên tại các trường đại học thuộc khối STEM ở TPHCM. Trong đó, có nhiều người đã đạt học hàm phó giáo sư, giáo sư; đặc biệt trong các ngành như công nghệ sinh học, môi trường, hóa học, công nghệ thực phẩm, công nghệ thông tin.

Tuy vậy, sự phân bổ nhân lực nữ khoa học và công nghệ chưa đồng đều giữa các ngành nghề và lĩnh vực công nghệ cao; định kiến giới trong giáo dục và xã hội vẫn là rào cản vô hình; thiếu chính sách hỗ trợ đặc thù cho phụ nữ trong nghiên cứu và khởi nghiệp khoa học; việc thống kê, phân tích, đánh giá định kỳ về giới trong lĩnh vực khoa học công nghệ còn chưa được chú trọng.

Để thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa vai trò của phụ nữ trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, bà Lê Thị Kim Oanh đề xuất TPHCM cần triển khai đồng bộ các nhóm chính sách theo hướng đổi mới, lồng ghép giới và mang tính hệ sinh thái. Cần hoàn thiện cơ chế chính sách về phát triển nhân lực nữ khoa học và công nghệ, có định hướng dài hạn. Tăng cường đầu tư cho các chương trình giáo dục STEM cho nữ sinh từ phổ thông đến đại học…

Trang Nguyễn

Kỳ tới: Khoảng trống chính sách và định kiến vô hình

 

news_is_not_ads=
TIN MỚI