Không được dễ dãi với việc đào tạo bác sĩ

04/12/2025 - 06:47

PNO - Việc dừng đào tạo bác sĩ ở các trường không chuyên cũng không thể làm ngay được mà có thể mất nhiều năm.

Trước năm 2015, ở Việt Nam, khi nói đến bác sĩ, người ta nghĩ ngay đến các trường đại học chuyên về y như Hà Nội, Thái Bình, Thái Nguyên, TPHCM, Huế, Học viện Quân y. Nhưng từ đó đến nay, cả nước có tới 37 trường đào tạo bác sĩ, trong đó có 19 trường công lập và 18 trường ngoài công lập, mỗi năm cung cấp cho xã hội hơn chục ngàn người với danh xưng là bác sĩ, cùng rất nhiều tên gọi khác nhau trên bằng cấp, như bác sĩ đa khoa, cử nhân y khoa, cử nhân sức khỏe, cử nhân sức khỏe cộng đồng.

Để trở thành bác sĩ thực thụ (đủ năng lực khám và điều trị), sinh viên phải mất 6 năm đào tạo tại trường y, bắt đầu từ năm thứ hai là phải học trong bệnh viện, sau đó mất 1-2 năm thực hành để được cấp chứng chỉ hành nghề và tiếp theo là các chương trình đào tạo chuyên sâu (nội trú, chuyên khoa). Trên thực tế, nhiều trường đào tạo bác sĩ nhưng không đủ giảng viên kinh nghiệm, không có phòng thí nghiệm, phòng thực hành, không có bệnh viện riêng để sinh viên vừa học vừa làm. Bộ Y tế cho biết, mỗi năm, cả nước có khoảng 13.000 bác sĩ tốt nghiệp, nhưng chất lượng rất chênh nhau. Chính vì thế mà Chính phủ có kế hoạch siết lại việc đào tạo bác sĩ và cả ngành luật là một quyết định đúng đắn.

Câu chuyện bắt đầu từ khi các trường đại học tư ra đời ào ạt. Chỉ trừ Đắk Nông (trước sáp nhập), còn tỉnh, thành nào cũng có một vài trường đại học, bộ ngành nào cũng có đại học. Nhiều trường được nâng cấp từ cao đẳng, trung cấp nghề. Đại học ra đời nhiều quá mà không có sinh viên thì có nguy cơ giải tán, nên tất cả các trường đều bung ra theo hướng “đa ngành, đa lĩnh vực”, trong đó có đào tạo y khoa và luật khoa, cùng với đó là những biến tướng không kiểm soát được.

Để mở một khoa chuyên ngành đào tạo, các trường phải đáp ứng được về tiêu chí đội ngũ giảng viên, như số giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ đúng chuyên ngành, diện tích phòng học trên đầu sinh viên, thư viện, phòng thực hành, phòng thí nghiệm. Nghe có vẻ rất chặt chẽ, phức tạp nhưng với các trường, việc này chỉ là những thủ thuật đơn giản: chỉ cần một người có chuyên môn nhận làm trưởng khoa, còn danh sách và lý lịch các nhà khoa học hay kể cả phòng ốc đều đi mượn.

Tuy nhiên, cũng cần có một cái nhìn khách quan và thấu đáo hơn. Những trường nào đào tạo theo kiểu “ăn xổi” thì nên dẹp bỏ, nhưng những trường không phải chuyên ngành mà đủ chuẩn ở mức tốt nhất, đảm bảo thực chất, có đủ đội ngũ giáo sư, bác sĩ, có bệnh viện cơ hữu cho sinh viên thực hành (không phải mượn danh) thì nên tiếp tục cho đào tạo bởi Việt Nam đang cần đội ngũ bác sĩ thực thụ, giỏi tay nghề, y đức cao và phấn đấu có 35 bác sĩ/10.000 dân.

Việc dừng đào tạo bác sĩ ở các trường không chuyên cũng không thể làm ngay được mà có thể mất nhiều năm, để làm rõ 2 điều. Thứ nhất, những người có bằng bác sĩ của các trường không được đào tạo nữa có được tiếp tục hành nghề không, hay là phải qua một khóa bổ túc, bổ sung những cái thiếu và phải trải qua kỳ sát hạch? Thứ hai, những trường này đương nhiên không được tuyển sinh ngành y nữa từ năm học 2026, nhưng những sinh viên đang học dang dở có được học tiếp cho hết khóa không, hay là chuyển sang các ngành khác trong trường, hay là được chuyển sang các trường chuyên?

Việc đền bù bằng tiền là có thể, nhưng cái mất lớn nhất của người đang học hay học xong không phải là tiền mà là tuổi trẻ. Cơ quan quản lý sẽ rút kinh nghiệm, phê bình, nhắc nhở, tiếp theo đó là các thông tư, nghị định, nhưng rõ ràng công tác quản lý nhà nước của Bộ GD-ĐT có rất nhiều điều chưa ổn. Ngành giáo dục Việt Nam cần có một cuộc cách mạng thực chất với người nhạc trưởng xứng tầm chứ các cuộc cải cách nửa vời trong hàng chục năm qua chỉ làm khổ dân, khiến đất nước tụt hậu.

Phó giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Minh Hoà

 

news_is_not_ads=
TIN MỚI