PNO - Người lao động bị mất việc ngày càng nhiều, nhưng số người tìm được việc mới phù hợp lại rất ít. Trong khi đó, nhiều doanh nghiệp cần người lại không tuyển được nhân sự ưng ý. Đó là nghịch lý lớn của thị trường lao động TPHCM hiện nay.
Sau nhiều tháng nộp hồ sơ ứng tuyển khắp nơi mà không có kết quả, chị Bích Thủy (xã Tân Vĩnh Lộc) đành xin vào bán hàng tạm cho một cửa hàng tiện lợi gần nhà. Chị là cử nhân ngành quản trị kinh doanh và có bằng cao đẳng hướng dẫn du lịch, có hơn 7 năm làm nhân viên một công ty đa quốc gia và khoảng 5 năm làm hướng dẫn viên du lịch cho công ty trong nước. Cuối năm 2024, chị bị mất việc. Hiện tại, chị vừa tạm bán hàng, vừa học lớp đào tạo từ xa chuyên ngành giáo dục mầm non để dễ có công việc ổn định.
Nhiều người học nghề, nâng cao kỹ năng để chuyển đổi công việc tại Trường cao đẳng Viễn Đông - Ảnh: Nguyễn Loan
Trong khi đó, ông Trần Lê Minh Kiệt - cố vấn nhân sự, pháp lý của một công ty trong ngành công nghệ thông tin - than, từ đầu năm 2025 đến nay, công ty ông đăng tuyển 12 người nhưng chỉ tuyển được 2 do không có người ứng tuyển. Ngoài kỹ sư công nghệ thông tin, công ty ông cũng cần tuyển 2 nhân viên truyền thông - đối ngoại nhưng sau nửa năm, chỉ tuyển được 1 người. “Các ứng viên có bằng cử nhân báo chí, có nhiều năm làm việc ở các cơ quan báo chí nhưng kỹ năng và chuyên môn yếu, lại đòi hỏi mức lương và chế độ phúc lợi quá cao” - ông nêu lý do khó tuyển.
Theo một khảo sát do trang tuyển dụng trực tuyến Việc làm 24h (vieclam24h.vn) công bố ngày 29/7, trong tháng 5 - 6/2025, trang đã khảo sát gần 2.000 người lao động và gần 1.000 doanh nghiệp. Kết quả, hơn 72,7% người lao động bị mất việc chủ động tìm việc trở lại nhưng chỉ 24,7% tìm được công việc phù hợp trong thời gian ngắn; 34,9% tìm được việc sau 1-3 tháng; 15% tìm việc hơn 6 tháng mà vẫn chưa có kết quả. Ở chiều ngược lại, 77,4% doanh nghiệp đánh giá tuyển dụng khó khăn hơn cùng kỳ năm trước.
Theo Tổng cục Thống kê, trong 6 tháng đầu năm 2025, cả nước có hơn 1,06 triệu người thất nghiệp và 798.100 người trong độ tuổi lao động thiếu việc làm. Tỉ lệ thất nghiệp của nhóm có trình độ đại học trở lên là 2,03%, ở nhóm có trình độ cao đẳng là 2,51% và ở nhóm có trình độ trung cấp là 1,85%. Nhóm có độ tuổi 15-24 có tỉ lệ thất nghiệp 8,06%. Trong báo cáo năm 2023, phân tích theo ngành học, Tổng cục Thống kê cho hay, nhóm ngành kinh tế, luật, xã hội học có tỉ lệ thất nghiệp từ 15% đến gần 20%.
Quy hoạch nguồn nhân lực cần đào tạo
Tiến sĩ Hoàng Ngọc Vinh - nguyên Vụ trưởng Vụ Giáo dục chuyên nghiệp, Bộ GD-ĐT - nhận định, nhiều trường ở Việt Nam vẫn đào tạo theo năng lực có sẵn, không bám theo tín hiệu và nhu cầu của thị trường. Theo ông, tự chủ đại học là cần thiết nhưng không thể buông lỏng việc điều tiết. Bộ GD-ĐT cần giữ vai trò điều phối tổng thể, đặc biệt là ở những ngành có tính chiến lược hoặc đang bị mất cân đối cung cầu nghiêm trọng.
Sinh viên tìm kiếm cơ hội làm việc trong ngày hội việc làm do Trường đại học Công nghệ TPHCM tổ chức tháng 3/2025 - Ảnh: Nguyễn Loan
Ông cho rằng, phần lớn doanh nghiệp chỉ dự báo được nhu cầu tuyển dụng trong ngắn hạn. Do đó, thay vì nêu con số cụ thể, Bộ GD-ĐT cần xây dựng cơ cấu nhân lực mang tính định hướng: bao nhiêu phần trăm có trình độ đại học, bao nhiêu phần trăm có trình độ cao đẳng và trung cấp, phân theo vùng và lĩnh vực. Các cơ sở đào tạo cần căn cứ vào chiến lược phát triển kinh tế, xã hội quốc gia và địa phương để xác định những ngành nghề trọng điểm, đồng thời chú trọng đào tạo những kỹ năng nền tảng, như kỹ năng số, kỹ năng thích ứng, kỹ năng chuyển đổi… để giúp người học thích ứng với sự biến động của thị trường và công nghệ.
Trên thực tế, một số địa phương đã chú trọng khâu dự báo nguồn nhân lực. Viện Nghiên cứu phát triển TPHCM đã dự báo nhu cầu tuyển dụng người lao động tốt nghiệp trung cấp, cao đẳng đến năm 2030. Một số trường đại học, cao đẳng, trung cấp nghề đã tăng cường kết nối với doanh nghiệp trong quá trình đào tạo. Chẳng hạn, Trường đại học Bách khoa TPHCM luôn cập nhật danh sách các doanh nghiệp phù hợp để giới thiệu sinh viên đến thực tập, rút ngắn khoảng cách giữa học và làm. Trường đại học FPT áp dụng mô hình “thực tập doanh nghiệp”, đưa sinh viên đi làm thực tế từ năm thứ ba. Tập đoàn Công nghiệp viễn thông Quân Đội (Viettel) cũng có các trung tâm đào tạo riêng để bồi dưỡng kỹ năng thực tiễn cho kỹ sư, chuyên gia công nghệ thông tin, điện tử, viễn thông.
Nhiều trường nghề đã tiệm cận chuẩn quốc tế, như Trường cao đẳng Công nghệ quốc tế Lilama 2 (tỉnh Đồng Nai), Trường cao đẳng Công nghệ cao Hà Nội, Trường cao đẳng Công nghiệp Huế, Trường cao đẳng Kỹ nghệ II (TPHCM), Trường cao đẳng Kỹ thuật công nghiệp Việt Nam - Hàn Quốc. Những cơ sở này đều hợp tác chặt chẽ với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) để triển khai mô hình đào tạo kép: dạy lý thuyết tại trường, rèn kỹ năng thực hành ngay tại doanh nghiệp. Nhờ vậy, sinh viên không chỉ vững tay nghề mà còn có cơ hội việc làm ngay khi tốt nghiệp. Khi các mắt xích trong quá trình đào tạo và sử dụng được kết nối chặt chẽ, sự lệch pha cung cầu trên thị trường lao động mới giảm rõ.
Chênh lệch cung cầu trong từng ngành, lĩnh vực
Theo Trung tâm Dịch vụ việc làm TPHCM, trong tháng 7/2025, ngành da giày, may mặc có nhu cầu tìm việc chiếm 12,05% trong 27 ngành nghề nhưng nhu cầu tuyển dụng chỉ chiếm 10,23%; ngành du lịch, khách sạn, dịch vụ có nhu cầu tìm việc chiếm 4,87% nhưng nhu cầu tuyển dụng chỉ chiếm 0,95%; ngành kinh doanh và quản lý có nhu cầu tìm việc chiếm 4,37% nhưng nhu cầu tuyển dụng chỉ chiếm 1,70%; ngành kế toán, kiểm toán có nhu cầu tìm việc chiếm 3,95% nhưng nhu cầu tuyển dụng chỉ chiếm 1,12%; ngành tài chính, chứng khoán, bất động sản có nhu cầu tìm việc chiếm 4,21% nhưng nhu cầu tuyển dụng chỉ chiếm 1,15%.
Ngược lại, ngành thực phẩm, đồ uống có nhu cầu tìm việc chiếm 5,80% nhưng nhu cầu tuyển dụng chiếm tới 14,09%; loại hình lao động phổ thông có nhu cầu tìm việc chiếm 31,66% nhưng nhu cầu tuyển dụng chiếm tới 57,90%.
Cần hoàn thiện chiến lược quy hoạch nguồn nhân lực
Theo báo cáo giám sát chuyên đề phát triển và sử dụng nguồn nhân lực giai đoạn 2021-2024 do Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội công bố vào tháng 7/2025, hệ thống giáo dục - đào tạo của Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập như thiếu chiến lược tổng thể về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, gây khó khăn trong việc xác định và thu hút nhân tài; cơ cấu đào tạo chưa hợp lý: tỉ lệ sinh viên các ngành kinh tế, tài chính còn cao, trong khi các ngành khoa học cơ bản, nông nghiệp, kỹ thuật, công nghệ đang thiếu nghiêm trọng.
Ước tính 30% sinh viên tốt nghiệp không làm đúng ngành đào tạo. Báo cáo kiến nghị, cần hoàn thiện chiến lược quy hoạch nguồn nhân lực, tăng đầu tư cho giáo dục nghề nghiệp, đẩy mạnh kết nối giữa đào tạo với thị trường lao động để khắc phục tình trạng thừa và thiếu lao động.
Ý kiến:
Bắt đầu thay đổi từ giáo dục phổ thông
Vừa thừa, vừa thiếu lao động không phải là vấn đề bề nổi của thị trường mà là hệ quả của một quá trình kéo dài, bắt nguồn từ hệ thống giáo dục phổ thông. Lẽ ra, chúng ta phải lồng ghép giáo dục hướng nghiệp và kỹ năng thực hành vào chương trình giáo dục phổ thông. Song, với chỉ khoảng 400 trường nghề so với hơn 2.000 trường THPT, việc phân luồng học sinh sau bậc THCS là bất khả thi.
Với một quốc gia đang phát triển như Việt Nam, cơ cấu nhân lực hợp lý nên là hình tháp, trong đó lao động có trình độ trung học nghề phải chiếm tỉ lệ cao nhất, làm nền tảng. Thực tế lại ngược hoàn toàn. Theo Tổng cục Thống kê, khoảng 70% lao động Việt Nam không có chuyên môn kỹ thuật. Tập trung phát triển giáo dục trung học nghề là giải pháp quan trọng không chỉ cung cấp đủ nguồn nhân lực phù hợp mà còn giúp giảm áp lực nặng nề cho kỳ thi tốt nghiệp THPT.
Trên thực tế, khoảng 80% học sinh tốt nghiệp THCS vẫn học lên THPT. Hệ thống trường trung cấp nghề còn rất thiếu, sự liên thông chưa đồng bộ khiến người học nghề không có cơ hội học lên cao. Phân luồng là một chủ trương rất đúng nhưng chưa được thực hiện hiệu quả do thiếu chính sách hỗ trợ và đầu tư. Bộ GD-ĐT cần thể hiện vai trò dẫn dắt rõ ràng hơn, nếu không, cơ cấu nhân lực sẽ tiếp tục bị méo mó, không thể đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước.
Tiến sĩ Lê Viết Khuyến - Phó chủ tịch Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam
Đào tạo phải gắn với sự chuyển mình của nền kinh tế
Mỗi giai đoạn phát triển đều đặt ra những yêu cầu rất khác nhau về nguồn nhân lực. Do đó, không thể có một chiến lược đào tạo duy nhất cho mọi giai đoạn. Việt Nam cần xây dựng lộ trình phát triển nguồn nhân lực gắn với từng bước chuyển mình của nền kinh tế, chú trọng đào tạo lực lượng lao động chất lượng cao, vừa vững chuyên môn, vừa có năng lực tư duy độc lập, giải quyết vấn đề, hội nhập với thị trường lao động quốc tế.
Nền kinh tế đang dịch chuyển dần sang hình thái tri thức, nơi giá trị cốt lõi không chỉ là tài nguyên, nhân công rẻ mà còn là hàm lượng chất xám. Trong bối cảnh đó, GD-ĐT không thể tiếp tục vận hành theo lối cũ. Đã đến lúc cần đẩy mạnh đầu tư cho giáo dục một cách thực chất cả về cơ sở vật chất, chương trình giảng dạy, phương pháp đào tạo và chất lượng giảng viên. Giáo dục phải thực sự trở thành quốc sách hàng đầu.
Song song đó, cần mở rộng và phát triển hệ thống giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học và sau đại học theo chuẩn quốc tế. Việc cải cách giáo dục phải đi vào thực chất, đặc biệt là ở chuẩn đầu ra, tính hướng nghiệp, tính thực hành và kết nối với nhu cầu xã hội chứ không chỉ dừng lại ở đổi mới lý thuyết hay khung chương trình. Đặc biệt, cần ưu tiên phát triển các ngành khoa học kỹ thuật, các lĩnh vực trọng điểm đang thiếu nhân lực như công nghệ, tự động hóa, nông nghiệp công nghệ cao… là các ngành lõi cho tăng trưởng dài hạn.
Tiến sĩ Lê Thị Anh Đào (Trường đại học Khoa học, thuộc Đại học Huế)
Doanh nghiệp và trường phải phối hợp đào tạo
Cung và cầu trên thị trường lao động chưa gặp nhau hiện tại là hệ quả lựa chọn ngành nghề của những năm trước: nhiều sinh viên chọn ngành theo xu hướng (trend), tập trung vào nhóm ngành kinh tế, tài chính.
Ngoài ra, khủng hoảng kinh tế và sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ, trí tuệ nhân tạo (AI) đã làm dịch chuyển xu hướng việc làm so với các năm trước. Trong khi các ngành nghề có ứng dụng công nghệ, chuyển đổi xanh, chuyển đổi số… ngày càng được mở rộng thì nhiều ngành khác bị thu hẹp quy mô, nhu cầu tuyển dụng giảm sút. Ví dụ, ở lĩnh vực kinh tế, sự bùng nổ của các sàn thương mại điện tử đã thay đổi rất nhiều về cơ cấu nhân sự, việc làm với hàng loạt vị trí được tự động hóa, thay thế bằng AI khiến doanh nghiệp cắt giảm nhân sự ở nhiều khâu, ảnh hưởng trực tiếp đến nhu cầu tuyển dụng. Những người được đào tạo cách đây 3-4 năm lại không theo kịp tốc độ phát triển của thị trường. Ngoài ra, nhiều ngành học đào tạo ồ ạt, tạo ra sự dư thừa người lao động có trình độ cao. Sau khi tốt nghiệp đại học, nhiều người nghĩ rằng mình phải có việc làm tương xứng, thu nhập tốt, không chấp nhận những công việc ở vị trí thấp, cũng không chịu học bổ sung, nâng cao kỹ năng nên dễ bị bỏ lại phía sau. Việc đào tạo hiện nay chưa chú trọng vào các kỹ năng gắn với thực tế dẫn tới tình trạng thất nghiệp, làm trái ngành sau khi ra trường.
Để giải quyết bài toán này, các cơ sở đào tạo ngành nghề phải tích cực chuyển đổi, đưa công nghệ số vào tất cả ngành học như một kỹ năng bắt buộc. Doanh nghiệp và cơ sở đào tạo phải phối hợp cùng đào tạo để sau khi ra trường, người đáp ứng được ngay nhu cầu của doanh nghiệp.
Ông Trần Anh Tuấn - Phó chủ tịch Hội Giáo dục nghề nghiệp TPHCM