Sự thật chuyện Bangladesh đón lượng đơn hàng dệt may khủng nhờ “xanh hóa”

06/06/2025 - 14:32

PNO - Tại diễn đàn “Quản lý nguồn nước trong sản xuất công nghiệp Việt Nam 2025” do Cục Môi trường - Bộ Nông nghiệp và Môi trường phối hợp cùng Báo Nông nghiệp và Môi trường tổ chức ngày 6/6, ông Vũ Đức Giang - Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS) - đã đưa ra thông tin bất ngờ.

Ông kể: Vào năm 2022, cả ngành dệt may Việt Nam xôn xao trước thông tin Bangladesh hút lượng đơn hàng lớn nhờ đã “xanh hóa” sản xuất. Câu chuyện lan truyền rộng khắp, trở thành ví dụ điển hình khiến nhiều người trong ngành cảm thấy sốt ruột, lo lắng cho năng lực cạnh tranh của dệt may Việt Nam.

Thế nhưng, khi ông Giang sang tận nơi tìm hiểu, sự thật lại không như những gì truyền thông “rầm rộ” đưa tin. “Bangladesh có tới 4.200 doanh nghiệp may mặc, nhưng chỉ vỏn vẹn 200 doanh nghiệp đạt chuẩn xanh (tức chỉ khoảng 5%). Thế mà họ làm cả thế giới tưởng như 100% doanh nghiệp của họ đã chuyển đổi xanh thành công” - ông Giang chia sẻ.

Ông Vũ Đức Giang - Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam chia sẻ về hành trình chuyển đổi xanh của doanh nghiệp may Việt Nam
Ông Vũ Đức Giang - Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam - chia sẻ về hành trình chuyển đổi xanh của doanh nghiệp may Việt Nam

Câu chuyện của ông Giang cho thấy, trong cuộc đua xanh hóa, truyền thông nếu không chính xác và đi đến nơi đến chốn, có thể tạo ra những ảo tưởng, gây sức ép không cần thiết lên chính sách và doanh nghiệp.

Thực tế, các thống kê từ Hiệp hội Dệt may Việt Nam cho thấy, doanh nghiệp Việt đã và đang đầu tư mạnh cho xanh hóa, tập trung vào các giải pháp như xử lý nước thải, tái chế chất thải và giảm thiểu khí thải.

Nhiều doanh nghiệp hiện nay đã áp dụng các giải pháp tiết kiệm năng lượng, chuyển đổi từ việc sử dụng than, dầu sang các nguồn năng lượng thân thiện hơn như điện và biomas… nhằm giảm tác động đến môi trường. Đặc biệt, sử dụng các nguyên liệu thân thiện môi trường và truyền thống như tơ tằm, đay, gai, chuối, dứa, tre. Xu hướng này vừa đáp ứng yêu cầu thị trường, vừa giúp phát huy giá trị bản địa của ngành dệt may.

“Ngành dệt may xuất khẩu vào 132 thị trường trên toàn cầu và mỗi thị trường đều đưa ra những tiêu chuẩn khác nhau. Trong đó, tiêu chuẩn nước là một trong những tiêu chuẩn bắt buộc, được kiểm soát rất chặt” - ông khẳng định.

Để giải quyết thách thức này, theo ông, các khu công nghiệp và doanh nghiệp bắt buộc phải đầu tư hạ tầng để thu gom nước mưa, nếu doanh nghiệp có chứng nhận từ địa phương về thu gom nước mưa, tiết kiệm nguồn nước thì đó là điểm cộng cho doanh nghiệp, nhãn hàng.

Ông Giang nhấn mạnh: “Chúng tôi không chờ áp lực từ Chính phủ. Khách hàng toàn cầu chính là áp lực lớn nhất. Nếu không đạt tiêu chuẩn, doanh nghiệp sẽ bị loại khỏi sân chơi”.

Đó là lý do nhiều doanh nghiệp trong ngành đã chủ động thay đổi. Điển hình như Tổng công ty May Việt Tiến - từ chỗ sử dụng than, củi để vận hành nồi hơi, đã chuyển sang sử dụng nồi hơi điện trong suốt 5 năm qua. Dù chi phí tăng khoảng 15%, đổi lại doanh nghiệp được gắn "thẻ xanh" từ Nike, đạt chứng nhận môi trường và đảm bảo không gian làm việc trong lành cho người lao động.

Tuy nhiên, việc đầu tư vào hạ tầng xử lý nước và năng lượng sạch vẫn là một thách thức lớn, đặc biệt với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ông Giang cho rằng cần có cơ chế hỗ trợ từ phía nhà nước và cộng đồng quốc tế, trong đó Nghị quyết 68 được ban hành để tạo điều kiện cụ thể hơn cho khối doanh nghiệp này, nếu không sẽ rất khó để họ vươn lên quy mô lớn.

Báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho thấy, cả nước hiện có 94,1% khu công nghiệp đang hoạt động đã xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn. Tuy vậy ở cụm công nghiệp, con số này mới chỉ dừng lại ở mức 31,5%, một tỉ lệ còn khiêm tốn, và cho thấy cần nỗ lực rất lớn phía trước.

Cùng với đó, công nghệ xử lý nước thải còn chưa đồng bộ, chi phí đầu tư và vận hành vẫn là rào cản lớn. Việc lựa chọn công nghệ phù hợp với từng ngành nghề, quy mô sản xuất và năng lực tài chính vẫn là một bài toán chưa có lời giải tối ưu, đặc biệt đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ngoài ra, chúng ta đang thiếu hụt đội ngũ chuyên gia, kỹ sư và kỹ thuật viên được đào tạo bài bản, có năng lực vận hành và bảo trì các hệ thống xử lý nước thải hiện đại.

Đặc biệt, công tác quản lý, giám sát hoạt động xử lý nước thải công nghiệp chưa được triển khai đồng bộ, thường xuyên và liên tục. Việc thiếu dữ liệu, công cụ giám sát hiệu quả khiến một số hành vi vi phạm pháp luật về môi trường chưa được phát hiện và xử lý kịp thời.

Mai Ca

 

news_is_not_ads=
TIN MỚI