Chương trình “Unlock Korea’s Treasures” (tạm dịch: Khám phá di sản Hàn Quốc) - sáng kiến mời gọi các nhà sáng tạo nội dung quốc tế cùng khám phá và kể lại câu chuyện di sản Hàn Quốc - cho thấy quảng bá văn hóa không thể là nhiệm vụ riêng lẻ của ngành du lịch hay văn hóa, cũng không thể dừng lại ở những chiến dịch truyền thông ngắn hạn. Cần có chiến lược tổng lực, liên ngành, tích hợp từ chính sách đến công cụ truyền thông, từ nguồn lực công đến sự tham gia chủ động của cộng đồng sáng tạo. Kỳ 1: Kể câu chuyện di sản bằng công nghệ số |
Báo Phụ nữ TPHCM đã có cuộc trò chuyện với phó giáo sư, tiến sĩ Bùi Hoài Sơn - ủy viên thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội - về câu chuyện khai thác di sản văn hóa để nâng tầm quyền lực mềm quốc gia.
 |
Phó giáo sư, tiến sĩ Bùi Hoài Sơn - Ảnh do nhân vật cung cấp |
Quyền lực mềm vẫn chưa tương xứng với tiềm năng
Phóng viên: Thưa phó giáo sư, tiến sĩ Bùi Hoài Sơn, ông đánh giá thế nào về vị thế quyền lực mềm của Việt Nam hiện nay so với khu vực?
Phó giáo sư, tiến sĩ Bùi Hoài Sơn: Việt Nam là đất nước giàu bản sắc với di sản văn hóa đa dạng, phong cảnh thiên nhiên kỳ vĩ và lịch sử đấu tranh, dựng nước, giữ nước hào hùng. Đây là nền tảng vững chắc để chúng ta xây dựng quyền lực mềm, tạo sự khác biệt so với các quốc gia trong khu vực. Đặc biệt, lòng hiếu khách, tinh thần lạc quan, tính cộng đồng bền chặt của người Việt là “thương hiệu” có sức lan tỏa mạnh mẽ trong thời đại toàn cầu hóa.
Nhưng, chúng ta cũng cần thừa nhận rằng quyền lực mềm của Việt Nam vẫn chưa tương xứng với tiềm năng. So với một số quốc gia như Hàn Quốc, Nhật Bản…, chúng ta vẫn thiếu chiến lược tổng thể và dài hạn. Một trong những điểm yếu lớn là sự thiếu đồng bộ giữa các ngành, giữa chính sách và thực tiễn, giữa nguồn lực nhà nước và sức sáng tạo của xã hội. Chúng ta có tài nguyên, có nội dung tốt nhưng thiếu những bàn tay kết nối, những nền tảng lan tỏa hiệu quả.
“Khi coi di sản là cái “cần được bảo vệ khỏi thay đổi” thay vì là thứ “cần được thổi hồn để sống cùng thời đại”, chúng ta vô tình giới hạn khả năng phát triển của chính mình. Di sản chỉ thực sự sống khi trở thành một phần của đời sống hiện đại, hiện diện trên mạng xã hội, trong các bộ phim, video TikTok, trò chơi điện tử… Để làm được điều đó, cần một sự thay đổi từ tư duy quản lý đến chính sách pháp lý, từ đầu tư vào hạ tầng số đến việc nuôi dưỡng các “nhà sáng tạo di sản” trong giới trẻ” |
Điều Việt Nam cần lúc này là “kể lại câu chuyện Việt Nam” bằng một ngôn ngữ mới, hấp dẫn hơn, lan tỏa hơn, như cách Hàn Quốc đang làm ở Unlock Korea’s Treasures. Đó là bài học quý để chúng ta xây dựng hệ sinh thái quyền lực mềm mang bản sắc Việt Nam. Trong đó người dân, đặc biệt là giới trẻ, không chỉ là người thụ hưởng mà còn là chủ thể kiến tạo, những “nhà ngoại giao văn hóa”, lan tỏa tình yêu đất nước bằng ngôn ngữ của thời đại.
* Việt Nam có nhiều di sản được UNESCO công nhận nhưng việc chuyển hóa thành tài sản số hay sản phẩm công nghiệp văn hóa còn hạn chế. Theo ông, điểm nghẽn lớn nhất hiện nay là gì?
- Theo tôi, điểm nghẽn lớn nhất hiện nay là thiếu tầm nhìn tích hợp giữa bảo tồn, sáng tạo và phát triển. Chúng ta vẫn đang nhìn di sản bằng lăng kính văn hóa - bảo tồn - truyền thống mà chưa nhìn nhận di sản như một nguồn lực phát triển bền vững, một “mỏ vàng” cho sáng tạo và công nghiệp văn hóa. Điều này khiến nhiều di sản nằm im lìm trong sách vở, trên biển hiệu hay những chương trình lễ hội lặp đi lặp lại thay vì được kể lại, tái sinh, truyền cảm bằng công nghệ, ngôn ngữ mới.
Chúng ta cũng đang thiếu một hệ sinh thái công nghệ văn hóa đủ mạnh để hỗ trợ quá trình chuyển đổi số. Một phần do nguồn lực còn hạn chế, phần khác do cơ chế hợp tác công - tư chưa thực sự cởi mở. Các nhà sáng tạo trẻ vẫn gặp khó khi tiếp cận dữ liệu gốc về di sản, chưa nói đến việc sử dụng chất liệu ấy để tạo nên sản phẩm văn hóa mang hơi thở đương đại.
 |
Đờn ca tài tử, 1 trong những Di sản văn hóa phi vật thể của Việt Nam, chất liệu tuyệt vời cho sản phẩm văn hóa trong kỷ nguyên số - ẢNH: Thành lâm |
Tôi tin rằng nếu chúng ta khơi thông được điểm nghẽn ấy, tức là có cơ chế mở, tầm nhìn rộng và hạ tầng số đủ mạnh, Việt Nam hoàn toàn có thể tạo ra một làn sóng “di sản sáng tạo” độc đáo, góp phần định vị thương hiệu văn hóa Việt Nam trong thế giới số. Đó không chỉ là cách để bảo tồn tốt hơn mà còn là cách để di sản thật sự “sống”, truyền cảm hứng và đồng hành với sự phát triển của dân tộc trong kỷ nguyên mới.
“Nếu có sự dẫn dắt từ chính sách, sự tiếp sức từ công nghệ, sự đồng hành từ cộng đồng, Việt Nam hoàn toàn có thể tạo nên làn sóng kể chuyện di sản sinh động, sáng tạo và gần gũi hơn với thế giới. Trong làn sóng ấy, các nhà sáng tạo trẻ chính là “sứ giả văn hóa”, góp phần lan tỏa hình ảnh Việt Nam sâu sắc, hiện đại và giàu bản sắc ra toàn cầu”. |
Kỳ vọng ngày càng nhiều bạn trẻ trở thành “người kể chuyện Việt Nam”
* Một dự án tương tự Unlock Korea’s Treasures liệu có khả thi ở Việt Nam không, thưa ông?
- Tôi cho rằng mô hình như Unlock Korea’s Treasures là hướng đi đầy hứa hẹn, giàu cảm hứng và rất phù hợp với Việt Nam hiện nay. Chúng ta có một thế hệ trẻ sáng tạo, nhạy công nghệ, đầy niềm tự hào dân tộc và khao khát kể chuyện Việt Nam theo cách riêng. Vấn đề không phải là có làm được hay không mà là chúng ta đã tạo đủ điều kiện để họ bước vào “cuộc chơi di sản” chưa.
Để thực hiện, cần 3 yếu tố cốt lõi.
Thứ nhất, cần một chiến lược đồng bộ từ Trung ương đến địa phương. Phải xác định rõ di sản không chỉ để bảo tồn, mà còn là chất liệu cho sáng tạo. Chính sách phải khuyến khích, hỗ trợ người trẻ tiếp cận, tái hiện di sản theo cách hiện đại. Cơ quan văn hóa không nên chỉ “quản lý” mà cần “truyền cảm hứng”, trở thành người đồng hành và sáng tạo cùng cộng đồng.
Thứ hai, hạ tầng công nghệ và dữ liệu mở. Để người trẻ sáng tạo từ di sản, họ cần được tiếp cận kho tư liệu số hóa một cách thuận tiện, miễn phí hoặc với chi phí hợp lý. Cần xây dựng các nền tảng mở, ngân hàng dữ liệu hình ảnh, âm thanh, bản vẽ, câu chuyện… để giới trẻ dễ dàng tra cứu và tái sử dụng trong sáng tạo. Khi dữ liệu di sản trở thành “tài nguyên chung”, sáng tạo sẽ tự nhiên nảy nở.
Thứ ba, cũng là yếu tố quan trọng nhất - là xây dựng hệ sinh thái khuyến khích sáng tạo nội dung văn hóa. Chúng ta cần những sân chơi như cuộc thi, tài trợ, liên hoan, chiến dịch truyền thông… để sản phẩm của người trẻ đến gần công chúng. Khi clip về đình làng, ảnh trang phục truyền thống hay bản nhạc cảm hứng từ ca trù trở thành xu hướng mạng xã hội, di sản không còn nằm trong “lồng kính” mà đã thực sự sống trong đời sống số.
“Tôi mơ một ngày không xa, trên Netflix, Disney+, TikTok hay Steam, những sản phẩm gắn tên “Vietnam” sẽ là một dòng chảy sáng tạo đầy tự tin, đầy sức hút. Khi người trẻ kể chuyện Việt Nam bằng cả trái tim và trí tuệ, Việt Nam không chỉ được biết đến mà sẽ được yêu mến”. |
* Theo ông, Việt Nam cần xây dựng chiến lược quyền lực mềm ra sao?
- Đây là câu hỏi lớn và rất cần thiết, bởi trong thời đại hôm nay, khi những giá trị vật chất không còn là yếu tố duy nhất định vị sức mạnh quốc gia, quyền lực mềm - nhất là quyền lực mềm văn hóa - đã trở thành “mặt trận” chiến lược. Việt Nam có nền tảng mạnh nhưng để bứt phá, cần một chiến lược bài bản, nhất quán và truyền cảm hứng, cả về nội dung lẫn tầm nhìn, cách triển khai.
Chúng ta cần xác lập mục tiêu rõ ràng: quyền lực mềm không phải là “phụ phẩm” của văn hóa mà là trụ cột chiến lược trong phát triển quốc gia - một công cụ ngoại giao hiệu quả, một động lực tăng trưởng mới và phương tiện khẳng định bản sắc Việt Nam trong thế giới toàn cầu hóa. Tầm nhìn ấy phải đặt con người, bản sắc và sáng tạo vào trung tâm: lấy văn hóa làm hạt nhân, lấy công nghệ làm phương tiện, lấy sáng tạo làm nhịp cầu kết nối với thế giới.
* Ông kỳ vọng gì về một thế hệ “người kể chuyện Việt Nam” dùng nền tảng số, ngôn ngữ đương đại để đưa bản sắc dân tộc ra thế giới?
- Tôi kỳ vọng ngày càng nhiều bạn trẻ trở thành “người kể chuyện Việt Nam” - dấn thân khám phá, yêu và lan tỏa bản sắc dân tộc bằng chính ngôn ngữ của thời đại mình. Đó có thể là một bạn trẻ làm vlog du lịch kể truyền thuyết Hồ Gươm bằng hoạt hình; là một nghệ sĩ indie viết nhạc dân gian pha chill pop; là một nhà phát triển game lấy chất liệu từ lịch sử nhà Trần… Họ không chỉ là người kể chuyện mà còn là người “tái sinh” văn hóa trong không gian số, người đưa Việt Nam “hiện diện” trong tâm trí bạn bè quốc tế bằng sự sáng tạo, trẻ trung và đậm chất Việt. Tôi tin rằng khi người trẻ tham gia sáng tạo văn hóa, bản sắc dân tộc không còn là cái gì đó “xa vời” hay “xưa cũ”. Khi đó, nó trở thành chất liệu nuôi dưỡng niềm tự hào và khả năng cạnh tranh mềm của đất nước.
* Cảm ơn ông đã chia sẻ.
Thảo Vân (thực hiện)