Cụ thể, theo bảng xếp hạng QS World University Rankings - Asia 2026, 25 cơ sở giáo dục đại học (ĐH) Việt Nam có thứ hạng cao ở châu Á đều có tỉ lệ sinh viên quốc tế dưới 1,1%. Cụ thể, Trường ĐH Văn Lang chỉ có 92 sinh viên quốc tế trong tổng số 52.214 sinh viên, chiếm khoảng 0,18%; ĐH Quốc gia TPHCM có 249 sinh viên quốc tế trong 97.101 sinh viên, chiếm gần 0,26%; ĐH Quốc gia Hà Nội có 262 sinh viên quốc tế trong hơn 60.800 sinh viên, chiếm 0,43%; ĐH Duy Tân có 236 sinh viên quốc tế trong 23.505 sinh viên, chiếm khoảng 1%; Trường ĐH Tôn Đức Thắng có 253 sinh viên quốc tế trong 24.374 sinh viên, chiếm 1,04%…
Trong khi đó, các trường hàng đầu trong bảng xếp hạng này có tỉ lệ sinh viên quốc tế rất cao. Ví dụ, tỉ lệ sinh viên quốc tế tại ĐH Hồng Kông (Trung Quốc) chiếm 52,6% (có 9.155 sinh viên quốc tế trong tổng số 17.405 sinh viên); tỉ lệ này của ĐH Quốc gia Singapore là gần 40%, của ĐH Công nghệ Nam Dương (Singapore) là 33,7%, của ĐH Phúc Đán (Trung Quốc) là 17,4%, của ĐH Bắc Kinh (Trung Quốc) là 15%…
Theo số liệu của Bộ GD-ĐT, cả nước hiện chỉ có khoảng 22.000 sinh viên quốc tế học tập (cả dài hạn và ngắn hạn). Trong đó, phần lớn sinh viên đến để giao lưu, trao đổi và tham gia các khóa ngắn hạn, chỉ có 5.021 người học các khóa dài hạn, trong đó có 4.000 người đến từ Lào, Campuchia, Myanmar, học theo diện hiệp định song phương. Sinh viên quốc tế tới Việt Nam học chủ yếu ở các ngành ngôn ngữ Việt Nam, văn hóa, chính sách công…
Theo phó giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Ngọc Duy Phương - Trưởng phòng Quan hệ đối ngoại, Trường ĐH Quốc tế thuộc ĐH Quốc gia TPHCM - việc thu hút sinh viên, giảng viên quốc tế góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, giúp quá trình toàn cầu hóa tốt hơn. Tỉ lệ sinh viên quốc tế vẫn còn thấp là do nhiều trường chưa chuẩn hóa chương trình đào tạo bằng tiếng Anh, chưa thực hiện tốt việc quảng bá chương trình, văn hóa, môi trường sống để thu hút người học.
Theo ông, Việt Nam có rất nhiều lợi thế để thu hút sinh viên quốc tế so với các nước trong khu vực, như chi phí học tập và sinh hoạt đều rẻ, chương trình học đa dạng. Tuy nhiên, để thu hút du học sinh, các trường cần chủ động xây dựng chương trình đào tạo đạt chuẩn quốc tế, mở rộng chương trình đào tạo bằng tiếng Anh, đặc biệt là ở những lĩnh vực có nhu cầu cao, như khoa học dữ liệu, trí tuệ nhân tạo, công nghệ sinh học, năng lượng tái tạo, y học chính xác… Ngoài ra, cần mở rộng học bổng cho du học sinh, tăng cường quảng bá chương trình ra bên ngoài lãnh thổ. Nhờ dạy hoàn toàn bằng tiếng Anh, Trường ĐH Quốc tế thu hút được hơn 380 sinh viên quốc tế.
Trường ĐH Bách khoa thuộc ĐH Quốc gia TPHCM hiện có tỉ lệ sinh viên quốc tế chiếm hơn 1% tổng số sinh viên của trường. Giáo sư, tiến sĩ Mai Thanh Phong - Hiệu trưởng trường này - nêu kinh nghiệm, ngoài mở rộng chương trình học bổng, phát triển chương trình dạy bằng tiếng Anh, trường còn hợp tác với đại học hàng đầu thế giới để đưa những chương trình đào tạo chất lượng về Việt Nam, tạo môi trường học tập và đời sống đa văn hóa cho sinh viên quốc tế. Năm 2017, trường chưa có sinh viên “ngoại” nào thì đến năm 2024 đã có 271 người và năm 2024 và năm 2025 có 341 người.
Giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Minh Hà - Hiệu trưởng Trường ĐH Mở TPHCM - cho biết, trường này đang đào tạo cho hàng trăm du học sinh quốc tế. Ngoài hợp tác với các trường uy tín trên thế giới để thực hiện các chương trình trao đổi sinh viên, quảng bá chương trình đào tạo của mình ra thế giới, trường này còn có chính sách học bổng rõ ràng, có chương trình đào tạo hoàn toàn bằng tiếng Anh, có môi trường cởi mở.
Galbadrakh Sugar - 18 tuổi, sinh viên ngành trí tuệ nhân tạo, Trường ĐH Mở TPHCM - cho hay, anh và 3 người bạn từ Mông Cổ tới TPHCM học tập khi được một du học sinh khác giới thiệu: “Anh của mình đã học ở TPHCM, rất ấn tượng với môi trường học tập và đánh giá cao chất lượng chương trình ở đây, chi phí học tập rất rẻ, thời tiết ấm áp. Sau khi tìm hiểu, mình thấy ngành AI ở Việt Nam phát triển mạnh những năm gần đây nên mình chọn du học Việt Nam”. Theo Sugar, nếu không được người quen giới thiệu, anh sẽ không biết gì về môi trường học ở TPHCM.
Trong hơn 100 sinh viên quốc tế đang học ở Trường ĐH Mở TPHCM, có cô Waqa Vinaina Waiviroca - 34 tuổi, học ngành công nghệ sinh học, đến từ đảo Fiji thuộc Cộng hòa Fiji, cách Việt Nam gần 14.000km. Cô từng học một khóa ngắn hạn về xét nghiệm y học nhưng chưa có điều kiện hoàn thành bậc đại học. “Ở nước tôi, ngành công nghệ sinh học còn rất mới mẻ nên tôi đã tìm kiếm chương trình du học phù hợp. Khi tìm hiểu các ngành học ở Việt Nam, tôi ấn tượng về chi phí thấp, ngành học đa dạng. Tôi mong muốn mang những kiến thức từ ngành học mới để về phục vụ quê hương” - Waiviroca nói.
Theo Waiviroca, khi chọn ngành hay đất nước để du học, sinh viên quốc tế sẽ cân nhắc dựa vào các tiêu chí như dạy bằng tiếng Anh, chương trình học đa dạng, chi phí học tập và sinh hoạt rẻ, giao tiếp cởi mở. Tuy nhiên, khi du học ở Việt Nam, cô băn khoăn nhất là yếu tố bằng cấp, không rõ bằng tốt nghiệp ở Việt Nam có được công nhận trên toàn thế giới hay không. “Tôi cho rằng, Việt Nam cần xây dựng các chương trình chuẩn quốc tế, dạy bằng tiếng Anh và chuẩn hóa bằng cấp. Khi tìm hiểu, tôi thấy có nhiều ngành học rất hay nhưng lại dạy bằng tiếng Việt nên chúng tôi không thể học” - Waiviroca đề xuất.
Ngọc Anh