Năm nào tới “Tháng cô hồn” cũng kéo theo nhiều chuyện “trên trời dưới…sông” của tập tục phóng sinh. Chim được phóng sinh thì chim bay không nổi, cá thì đã có sẵn người khác với xuồng, ghe, lưới, vợt để…bắt rồi sau đó bán lại cho người phóng sinh tiếp theo.
 |
Cá chép được thả xuống sông. Ảnh: Minh An |
Theo tôi, phóng sinh là một tập tục vừa có ý nghĩa tâm linh vừa có giá trị khoa học nhưng về sau này bị biến tướng nên tập tục trở nên “méo mó”, không còn ý nghĩa nhân văn nữa.
Trước hết, người phóng sinh có quan niệm phóng sinh là thể hiện lòng từ bi với những sinh vật hạ đẳng chịu kiếp luân hồi, mong muốn người thân như ông bà cha mẹ quá cố hay xa hơn nữa gọi chung là cửu huyền thất tổ nhờ đức từ bi đó mà được siêu thoát, giải nghiệp sống thảnh thơi nơi cực lạc hoặc được đi đầu thai trở lại trần gian. Người trần thế cho đó cũng là một cách báo ân, báo hiếu của con cháu cho người quá cố.
Nhưng cũng có người cả tin trần tục hơn, rằng phóng sanh để cầu tài, cầu lộc, cầu quan, cầu cả tình duyên…
Cho dù phóng sinh để cầu gì gì chăng nữa thì trước hết cái gốc tâm linh của tập tục là tạo dựng niềm tin con người trong cuộc sống. Có niềm tin để không còn lo sợ một thế lực siêu nhiên nào đe doạ cuộc sống, sống yêu đời, lạc quan, sống có mục đích. Có niềm tin để tích cực lao động để an cư lạc nghiệp, cống hiến tài lực vật lực cho quê hương đất nước.
Ngoài ý nghĩa đó, tập tục phóng sinh còn góp phần tạo sự cân bằng sinh thái môi trường như thả tôm, cá xuống sông để duy trì nguồn thực phẩm thủy hải sản cho con người; thả sinh vật quý hiếm để bảo tồn nòi giống...
 |
Một người đàn ông dùng vợt tóm gọn những con cá mới thả gần bờ đem đi bán. Ảnh: Minh An |
Có người phóng sinh lập tức có người tìm bắt vật phóng sinh. Chưa kể việc người ta tìm bắt vật đển bán dùng cho phóng sinh vô tội vạ. Chẳng hạn như ở quê tôi, chim én là người bạn đồng hành cùng với nông dân diệt sâu rầy, nhưng không ít lần khi tới mùa chim én về trên cánh đồng lúa, tôi chứng kiến từng nhóm người giăng bẫy bắt chúng. Làm như thế phá vỡ hệ sinh thái, là sâu rầy có cơ hội sinh sôi nẩy nở phá hoại mùa màng làm mất năng suất, sản lượng nông sản.
Với thực trạng như vừa nêu, theo lời một vị Thượng tọa, thay vì phóng sinh để giải nghiệp thì người phóng sinh lại tạo thêm nghiệp chướng.
Tôi đã từng đi dự nhiều lễ hội nhiều nơi, đa phần nơi nào tôi đến cũng có tục phóng sinh, tức có người mua, kẻ bán vật phóng sinh.
Có nơi chính quyền địa phương thẳng thừng cấm, có nơi không tán thành nhưng cũng lờ đi.
Tùy nơi tuỳ chỗ mà người bán, người mua vật phóng sinh che giấu hay lộ liễu.
Nơi nào chính quyền địa phương hay ban tổ chức lễ hội dễ dãi thì không khí nơi đó có phần bát nháo, người mua người bán nhiều hơn, tiếng chí choé của chim chóc cũng huyên náo nhiều hơn. Nơi nào khó khăn hơn thì người bán phải nguỵ trang vật phóng sinh bằng nhiều cách để chính quyền hay ban tổ chức không nhìn thấy, hoặc người bán hẹn người mua ở một nơi kín đáo nào đó và công việc bán mua thực hiện thật nhanh chóng.
Người mua vật phóng sinh đâu biết rằng những con chim đã được người bán làm mọi cách cho yếu đi, cho uống thuốc gây mê chẳng hạn, nên khi được thả ra chúng không bay được và tất nhiên chúng sẽ dễ dàng bị bắt lại, bị mua đi bán lại nhiều lần, bịphóng sinh cho đến chết.
 |
Nhiều người dân đi phóng sinh đứng trên bờ bất lực nhìn cá chép bị chích điện, vớt lên. Ảnh: Minh An |
Mấy năm trước, Chùa Diệu Pháp ở quận Bình Thạnh trước đây, nay là phường Bình Lợi Trung, ở TPHCM đã phải di dời cổng chủa sang nơi khác để tránh cảnh bát nháo buôn bán, chèo kéo phật tử, khách du lịch hay đi viếng chùa của các hộ đối diện; đồng thời trả lại cảnh thanh tịnh nơi tôn nghiêm.
Trước việc di dời cổng chùa, có người xông thẳng vào chùa dùng lời lẽ thô tục cư xử thậm tệ với tăng ni.
Nhưng rồi cổng chùa cũng chẳng được yên lành vì các hộ buôn bán lại lập ra những “cửa hàng di động” bám theo để bán vật phóng sinh.
Tệ hại hơn, các cửa hàng buôn bán này liên kết với những người đánh bắt lại chim chóc, cá, rùa, ếch, nhái bán lại các hộ này để họ tiếp tục bán lại cho người phóng sinh khác.
Nhà chùa nhiều lần kêu cứu đến cơ quan chính quyền địa phương, nhưng hiện tượng buôn bán bát nháo trước cổng chùa vẫn như “bắt cóc bỏ dĩa”. Chính quyền “chốt chặn” nơi này thì nơi khác “mọc” lên, hoặc tạm lắng thời gian rồi “đến hẹn lại lên”, khó mà dứt điểm.
Năm nay theo ghi nhận các phương tiện truyền thông, tuy tình trạng đánh bắt lại sinh vật phóng sinh ở dưới sông không còn nữa nhưng trước cổng chùa vẫn còn cảnh bát nháo người mua bán sinh vật phóng sinh.
Ngày xưa ông bà ta nói, cứ gặp “chim sa xuống đất, cá nhảy lên bờ” là điềm xui nên cần phải phóng sinh chúng để tránh khỏi điềm xấu, tạo phúc lành.
Ý nghĩa của việc làm này hàm ý giáo dục lòng thương yêu sinh vật, yêu thương con người khi họ hoạn nạn. Ngày nay thì ngoài ý nghĩa đó còn là đưa sinh vật trở lại môi trường sống để chúng sinh sôi nảy nở tạo thêm thực phẩm cho con người, cân bằng sinh thái môi trường; kiến tạo lòng yêu thương sinh vật để từ đó yêu thương con người.
Tôi không có ý là cần bỏ đi một nét đẹp văn hóa mang đầy tính nhân văn cũng như khoa học của tập tục phóng sinh nhưng thiết nghĩ, chúng ta nên có một cách nghĩ, cách làm để phóng sinh phù hợp theo nhiều ý nghĩa, hoàn thiện tập tục này để phục vụ cho đời sống con người và cân bằng sinh thái môi trường.
Nguyễn Minh Út