Truyện ngắn - Tìm lại dấu xưa

26/06/2022 - 07:31

PNO - 18 tuổi, tôi không dám tin vào cuộc đời bởi nỗi hoài nghi quá lớn. Tôi nợ một lời xin lỗi cần được nói ra với một người trong suốt những năm tháng tuổi trẻ cho đến khi mọi thứ nguôi ngoai theo thời gian.

Trước đó, tôi có một giấc mơ lạ và đẹp. Lạ là bởi mọi thứ tôi gặp trong mơ chắc 30 năm rồi tôi hoàn toàn không nhớ gì về chúng, vậy mà khi trở lại trong giấc mơ ấy lại sống động tới từng chi tiết: Bờ cỏ xanh bên rào, hoa văn bộ bàn ghế, gió đùa khóm trúc, bụi tre cựa mình, bầy chim chuyền cành… Đặc biệt, mùi hương của hoa hồng đậm mà thoảng, nhẹ mà sâu khi nồng nàn cuống quýt, lúc nhạt nhòa xa xăm. Nhân vật tôi là của những năm chân sáo, áo đầm, tóc thắt bím xa lắc lơ hơn nửa thế kỷ.

Lạ còn bởi bình thường tôi rất mau quên những giấc mơ, chưa khi nào nhớ được nội dung mà chỉ loáng thoáng những gương mặt người, chuyện nọ xọ chuyện kia, không thể sắp xếp thứ tự để kể lại ngọn ngành. Vậy mà trong giấc mơ đó, không gian và thời gian hiện lên rõ ràng, mạch lạc: Tại sao tôi đến đó, để làm gì, với ai…

***

Vườn hồng đủ sắc màu. Một dãy hoa vàng sáng lên trong nắng chiều, lượn vào màu trắng ngà của cái hàng rào gỗ thấp rồi chìm vào màu tường vôi mặt tiền căn nhà có nhiều cửa sổ. Bên dưới cửa sổ có vạt hoa sắc hồng phấn hay hồng tro, tôi không phân biệt được vì ánh nắng chiếu vào hơi gắt. Trên thảm cỏ có đặt bộ bàn ghế mây màu trắng, hoa văn đan cầu kỳ. Chiều mùa hè, bốn đứa chúng tôi đang học Pháp văn với xơ Marie người Pháp. Chỗ chúng tôi ngồi không có giọt nắng nào rơi xuống.

Bốn đứa học trò nhỏ là hai anh em tôi và hai chị em Phượng. Chúng tôi ngồi quanh bàn tròn nhìn xơ Marie đang cầm một tấm bảng có kích thước lớn hơn cuốn vở, loại bảng không dùng phấn mà dùng một cây bút nhựa ngắn, đầu bo tròn. Cái bảng có một lớp nền màu đen, bên trên là miếng nhựa trong. Xơ Marie lấy cây bút viết lên miếng nhựa trong, chữ nổi trên nền màu đen. Chờ chúng tôi đọc xong, xơ cầm miếng nhựa kéo lên, xóa sạch rồi viết tiếp. Mấy chục năm sau, tôi mới gặp lại loại bảng này bán ở các nhà sách, gọi là “bảng viết xóa nam châm”. 

Năm đó, tôi và Phượng học lớp Năm, anh tôi hơn ba lớp. Sinh ngữ chính của anh tôi là Anh văn, lên lớp 10 mới học tiếng Pháp, gọi là sinh ngữ phụ. Anh tôi và chị của Phượng do đã quen việc học ngoại ngữ nên tiếp thu khá nhanh, riêng tôi học rất đuối. Tôi hầu như không hiểu gì khi xơ Marie không biết tiếng Việt, vào giờ học toàn trao đổi bằng tiếng Pháp. Tôi lặp lại theo xơ như con vẹt mà không hề biết nghĩa câu, từ. Vậy mà sau này lên lớp 10, tôi luôn nhất lớp về môn Pháp văn và đọc rất đúng giọng, được thầy khen mới ngạc nhiên chứ!

Được vài tháng, thấy tôi vẫn không chút tiến bộ, xơ Marie “trả” tôi lại cho ba, chỉ nhận dạy anh tôi. Sáng, tôi học trên trường, cả buổi chiều ở nhà “lơ ngơ lớ ngớ” chẳng biết làm gì. Thấy vậy, ba xin cho tôi học lớp giáo lý của xơ Veronique, người Việt - gọi theo tên Thánh. Tôi cũng chẳng thích thú gì nên học hành lơ là lắm, nghe đó rồi quên ngay, không tập trung trong khi học, chỉ mong mau được ra chơi… Biết vậy, xơ Veronique chú ý đến tôi hơn. Xơ càng chăm chút, tôi càng thấy khổ sở. 

Tôi hay tiếc những lúc ra chơi. Bước chân của đứa trẻ lên chín nín thở, chạy u chưa giáp vòng khu đất rộng đã bị gọi vào học tiếp. Có hai ngôi nhà, phía trước là nhà xây gạch, có nhiều ô cửa sổ kính, tôi đoán là nơi tiếp khách hay cầu nguyện. Hoa hồng trồng khắp lối đi, sân trước, trong vườn. Phía sau là nơi ở của các xơ, nhà gỗ, dựng theo kiểu nhà sàn, cầu thang đi lên cao khoảng một mét. Ngôi nhà không có gì đặc biệt ngoại trừ một mùi thơm dịu, sạch, phảng phất mùi nắng từ những bộ tu phục màu xám phơi trên dây. 

Một lần đi học sớm, tôi tha thẩn ra dãy phòng của các xơ và thấy một xơ đang đứng chải đầu trước gương. Mái tóc đen dày đổ xuống, dài và óng mượt khiến tôi ngây ra hồi lâu mới giật mình len lén lùi đi vì sợ bị phát hiện. Hồi ấy, các xơ luôn đội lúp trùm kín tóc nên tôi có cảm giác như mình vừa phạm một điều tội lỗi. 

Xơ Veronique có gương mặt đẹp và thật hiền. Đôi mắt sau cặp kính trắng luôn nhìn mọi người một cách trìu mến; giọng nói nhỏ nhẹ, dịu dàng toát lên vẻ ân cần, quan tâm. Trong khu nhà ấy có nhiều xơ nhưng tôi chỉ nhớ thêm một xơ lớn tuổi nhất, gương mặt khắc khổ, dáng đi nhanh nhẹn, giọng nói đầy uy nghiêm. Những chiều êm ả với những giờ học Pháp văn, giáo lý trong khu vườn hoa hồng đủ sắc màu ấy trôi chậm, đưa tôi qua hết mùa hè tiểu học rồi vào trung học. 

Giấc mơ chỉ đến đó nhưng khiến tôi nhớ đoạn sau này với nhiều ray rứt những năm tuổi 20. 

***

Tôi vào trung học, bài vở, bè bạn… cuốn đi khiến tôi không còn dịp ghé lại khu nhà có vườn hoa hồng, chiều bình yên ríu rít tiếng chim. Mùi thơm dịu nhẹ cộng với mùi nắng cũng trôi vào quên lãng. Sau này, ba tôi nói rằng các xơ đã dọn đi nơi khác rộng rãi hơn.

18 tuổi, tôi vào năm thứ hai đại học ở Thủ Đức. Thời bao cấp, xe cộ đi lại rất khó khăn. Tôi là dân tỉnh, mỗi lần vào lại Sài Gòn phải chen lấn mua vé xe rất khổ cực. “Đặt cục gạch” từ tờ mờ sáng, xếp hàng cả ngày, đến phiên mình thì hết vé là chuyện cơm bữa. Bến xe ngày đó rất hỗn độn, phức tạp; nói chung là phải rất cảnh giác bởi sơ hở dễ bị móc hay rạch túi xách. Tôi đã bị rọc túi một lần vào năm thứ nhất khi chen xe buýt từ Sài Gòn lên Thủ Đức. Nhớ lại đường dao lam bén ngót để lại trên cái túi giả da, tôi còn lạnh người.

Hôm ấy, dù đã ra bến xe từ sáng sớm, tôi vẫn không thể xếp hàng được phía trước. Sau gần ba tiếng đồng hồ chờ đợi, cuối cùng… hết vé. Trong âm thanh lao nhao của đám đông, bật lên tiếng loa phóng thanh yêu cầu mọi người trật tự, nếu còn vé sẽ bán tiếp. Tôi nản quá vừa quay ra sau định nhờ người phía sau giữ giùm chỗ để ra ngoài một lát thì bắt gặp một gương mặt nhìn tôi chăm chăm có lẽ từ lâu lắm.

Tôi chột dạ, có chút sợ hãi khi nghĩ đến những việc thôi miên, bỏ bùa mê ở bến xe. Người phụ nữ ấy có gương mặt khắc khổ, gương mặt đầy những vết nám mà cặp kính mát màu xanh không che được hết. Tóc bà dài, kẹp bằng cây kẹp nhựa. Quần bà ba đen và cái áo ngắn màu xám tro nói lên vẻ lam lũ, quê mùa. Tuy vậy, đôi bàn tay nhỏ và thon, ngón áp út có đeo một chiếc nhẫn cho thấy cốt cách thanh nhã, lịch sự. 

Đột nhiên, người phụ nữ ấy hỏi tôi: “Em mua vé đi Sài Gòn?”. Tôi gật đầu rất lạnh nhạt vì nghĩ bà ta đang có “ý đồ”. “Em học ở Sài Gòn?”. Lúc này, tôi bực mình thật sự: “Vâng”. Bà ta nhìn tôi cười: “Em lớn quá, tôi suýt nhận không ra nhưng tôi thấy ba em đang chờ em ngoài kia”. 

Tôi ngạc nhiên: “Sao cô biết ba cháu?”. “Có lẽ em quên tôi rồi. À, mà em học ở đâu vậy?”. Tôi trả lời: “Dạ, ở Thủ Đức”. Bỗng dưng cảm giác sợ hãi ập đến. Tôi thấy mình sao dễ tin người, dại dột hé lộ thông tin nơi học làm chi với người phụ nữ không quen ấy.

Thế nhưng, người đàn bà nọ chỉ cười và nói: “À, Thủ Đức” rồi quay đi khi nghe có tiếng kêu bên ngoài.

Tức thì, như một luồng điện xẹt ngang kích hoạt nhanh ký ức tôi: Nụ cười hiền; giọng nói dịu nhẹ, ân cần; khu vườn rộn tiếng chim, hương hoa hồng, bộ bàn ghế mây, tấm bảng của xơ Marie… lần lượt hiện lên chậm và chi tiết như tôi đang lần giở một cuốn album cũ. Tôi không có thời gian chạy theo bà vì loa phóng thanh vang lên yêu cầu mọi người vào hàng. Tôi vội vàng quay lại và tự nhủ mua vé xong sẽ ra tìm bà. 

Khi ra bên ngoài, tôi thấy ba đến đón. Ba hỏi: “Mua được vé không, con?”. Tôi gật đầu, ba nói tiếp: “Hồi nãy, ba có gặp xơ Veronique. Bà ấy giờ già và trông khắc khổ quá, lúc đầu ba nhận không ra nhưng may nhờ giọng nói quen thuộc. Xơ hỏi con học ở đâu, học có giỏi không. Ba nói con học giỏi, bà ấy vui lắm”. Tôi vội vàng: “Thế xơ đâu rồi, ba?”. “Chắc bà ấy đã mua được vé đi Sài Gòn. Thôi mình về, ngày mai ra bến xe sẽ gặp nhau”.

Tôi “đứng hình” trong vài giây, sau đó tràn ngập cảm giác hổ thẹn, nuối tiếc, tự trách mình. Gần mười năm trôi qua, sao tôi vô tình như vậy chứ!

Tối đó, vào sinh nhật 18 tuổi, tôi đã viết một lá thư dài với những dòng chữ ray rứt, mong xơ tha thứ và dự định sáng hôm sau ra bến xe sẽ đưa cho xơ. Thế nhưng, mãi mãi lá thư không có người nhận. Trên chuyến xe đi Sài Gòn hôm đó, tôi không gặp được nụ cười hiền, giọng nói nhẹ nhàng, ấm áp của ngày xưa.

Năm tôi học năm thứ tư đại học, ba tôi báo xơ Veronique đã chuyển vào Thủ Đức. Tôi tìm trong vô vọng, bế tắc vẫn không có tin tức về xơ. 

18 tuổi, tôi không dám tin vào cuộc đời bởi nỗi hoài nghi quá lớn. Tôi nợ một lời xin lỗi cần được nói ra với một người trong suốt những năm tháng tuổi trẻ cho đến khi mọi thứ nguôi ngoai theo thời gian. 

***

Tôi có kế hoạch chụp hình lại những ngôi nhà cổ/xưa ở quê mình. Tôi đặt tên cho “dự án” nhỏ này là Tìm lại dấu xưa. Tôi kể về dự án này cho bạn bè thời trung học nên mỗi khi biết được ngôi nhà nào đẹp, các bạn hay mách tôi tìm đến. 

Tôi gặp lại Phượng chỉ mới vài năm gần đây. Thời gian ngắn ngủi ở lớp Pháp văn của xơ Marie vừa đủ để chúng tôi biết tên. Lên trung học, chúng tôi khác lớp nên mối quan hệ lợt lạt, lỏng lẻo. Dòng đời trôi, tôi rời quê lên thành phố, bận bịu với công việc, gia đình, cơm áo… Mãi đến khi nghỉ hưu tôi mới có nhiều dịp hội ngộ bạn bè cũ. Bây giờ, chúng tôi thành nhóm bốn người, mỗi năm hai lần đi chơi xa, còn lại thường xuyên cà phê, họp mặt ăn uống cùng nhau. 

Hôm ấy, tôi và Phượng ngẫu hứng rủ nhau “tìm lại dấu xưa” vì Phượng bảo cô ấy muốn giới thiệu cho tôi một ngôi nhà cổ rất đẹp. Trong câu chuyện giữa chúng tôi và chủ nhân ngôi nhà cổ không hiểu sao lại “lạc” đến khu đất rộng mà hồi ấy người ta cho các xơ thuê để dựng nhà sàn, làm nơi ở và dạy học. Tôi và Phượng nhìn nhau. Có phải ngôi nhà hồi đó không? Tôi hỏi dồn tin tức về các xơ. Phượng lắc đầu: “Chỉ biết sau đó các bà ấy dời vào D., cách đây 30 cây số”.

Chúng tôi thẳng tiến đến D., mục đích hỏi thăm tin tức về các xơ ngày ấy mà trong tay không có một địa chỉ cụ thể nào, chỉ hú họa may rủi. Chưa đi làm sao biết con đường mình sẽ đến có những hy vọng gì mở ra, chờ đón?

Vừa đi vừa hỏi thăm đường với những thông tin vô cùng mù mờ, cuối cùng chúng tôi cũng đến được nơi cần đến - một tu viện. Thật tình ban đầu tôi không nghĩ sẽ gặp lại xơ Veronique nên đã rất ngỡ ngàng khi biết xơ mới về lại Dòng hai năm trước.

Tôi thở ra như hạ được gánh nặng mang trên vai nhiều năm tuổi trẻ và hồi hộp ngồi đợi ở phòng khách. Xơ xuất hiện trong bộ trang phục thường ngày, quần đen, áo ngắn, đầu đội lúp trắng. Cặp kính trắng trên gương mặt trái xoan, nụ cười đôn hậu của xơ vẫn y nguyên trong cái nhìn của đứa con nít tôi ngày ấy, đặc biệt tôi không thể nào quên giọng nói đã khiến tôi ray rứt suốt một quãng đời dài. Tôi đã tìm một người đến tận hơn nửa thế kỷ mới gặp lại, ngẫu nhiên không định trước mà thành.

Chúng tôi có chung ký ức về ngôi nhà ấy nhưng thời gian quá lâu rồi, xơ đã thuyên chuyển nhiều nơi, cuối đời về lại D. an dưỡng tuổi già. Xơ đã dạy biết bao lớp học trò nhỏ, làm sao nhớ được một đứa bé lười học chỉ thích tha thẩn khám phá, tìm tòi.

Tôi kể về ba tôi, một người thầy thuốc vốn là bạn thân với các xơ khi xưa, nhưng đáp lại chỉ là cái lắc đầu: “Không nhớ”. Thời gian đã sàng lọc và bỏ đi quá nhiều ký ức đời người. Chỉ có tôi ôm giữ những câu trả lời lạnh nhạt ở bến xe ngày ấy và gặm nhấm nỗi day dứt của riêng mình. 

Cuộc đời là vậy, đôi khi chúng ta mãi ân hận về một lỗi lầm và chờ xin cơ hội tha thứ nhưng người ấy hoàn toàn không nhớ, không chú ý để nhớ vì nó chỉ là tiểu tiết trong ngồn ngộn dữ liệu đời người. 

Xơ kể: “Sau những biến động, chị Marie trở về Pháp và ra khỏi Dòng. Chị có trở lại Việt Nam trong một chuyến du lịch và gặp chúng tôi, chị em vui mừng hàn huyên sau nhiều năm xa cách. Thời gian trôi, bao chuyện vật đổi sao dời. Vào tuổi 84, xơ cũng quên khá nhiều rồi!”.

Dù xơ không nhớ nhưng tôi vẫn như được “giải tội”. Tôi thấm hiểu cuộc đời có những điều thật thú vị và may mắn đôi khi như một phước lành, ân sủng không dễ có được.

Tôi thấy mình may mắn.

Đào Thị Thanh Tuyền

 

news_is_not_ads=
TIN MỚI