Quản trị manh mún, tăng trưởng thiếu định hướng
Chủ trương tái cấu trúc mạnh mẽ của Nghị quyết 71 không phải là một chính sách đột ngột, mà là tất yếu trước những hệ quả của quá trình phát triển “nóng” của giáo dục đại học (ĐH) trong 3 thập kỷ qua. Giai đoạn trước Đổi mới và những năm đầu thập niên 1990, giáo dục ĐH mang đặc trưng của mô hình giáo dục tinh hoa, số lượng trường ít, quy mô hạn chế.
 |
Cơ hội vào đại học đã được mở rộng hơn so với trước. Trong ảnh: Thí sinh TPHCM tham dự kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2025 để lấy điểm xét vào đại học |
Tuy nhiên, từ giữa những năm 1990, hệ thống này đã bước vào giai đoạn mở rộng chưa từng có. Trong 5 năm 2005-2010, tăng 76 trường cao đẳng (CĐ) và 48 trường ĐH. Nhiều trường ĐH mới thành lập trong giai đoạn này được nâng cấp từ trường CĐ. Bình quân mỗi năm số trường tăng 8,3%; số sinh viên tăng 9,7% và số giảng viên tăng 10%.
Số trường ĐH đã tăng gấp đôi trong giai đoạn 2005-2025, từ 137 trường (công lập và ngoài công lập) đã lên đến 264. Quy mô đào tạo tăng không ngừng, đạt 2.205.127 sinh viên vào năm học 2023-2024. Dù đã thành công trong việc mở rộng cơ hội tiếp cận ĐH cho hàng triệu thanh niên, quá trình phát triển nóng đã để lại hệ quả sâu sắc. Việc mở rộng quy mô, đặc biệt là việc nâng cấp trường CĐ lên ĐH, thường không đi kèm với sự đầu tư tương xứng về chất lượng. Nhiều cơ sở mang danh ĐH nhưng vẫn thiếu các điều kiện cần thiết về đội ngũ học thuật, năng lực nghiên cứu khoa học tương xứng.
Mạng lưới trường bị phân mảnh, quy mô nhỏ, hoạt động kém hiệu quả. Các trường ĐH hoạt động dưới sự chủ quản của nhiều bộ, ngành hoặc chính quyền địa phương khác nhau, dẫn đến thiếu 1 chiến lược phát triển tổng thể, các tiêu chuẩn không nhất quán và sự phân bổ nguồn lực kém hiệu quả. Sự yếu kém về quản trị kéo theo khủng hoảng về nguồn lực đầu tư. Ngân sách nhà nước chi cho giáo dục ĐH ở mức rất thấp, chỉ khoảng 0,27% GDP, và con số thực chi năm 2020 thậm chí chỉ đạt 0,18% GDP, thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Thiếu đầu tư, cơ sở vật chất ở nhiều trường còn sơ sài, lạc hậu, từ giảng đường, thư viện đến phòng thí nghiệm. Đầu tư vào trang thiết bị hiện đại, nhất là trong các ngành công nghệ cao gần như không thể nếu chỉ dựa vào nguồn học phí. Trong khi đó, tỉ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ còn hạn chế, năng lực nghiên cứu khoa học và sáng tạo yếu. Do thiếu nguồn lực và năng lực nghiên cứu hạn chế, hầu hết trường ĐH Việt Nam chưa có vị trí cao trên các bảng xếp hạng quốc tế uy tín. Số lượng công bố quốc tế tuy có cải thiện nhưng vẫn còn thấp…
Trong bối cảnh cạnh tranh tuyển sinh và áp lực tài chính, các trường ĐH có xu hướng chạy theo thị hiếu bằng cách mở các ngành “nóng” như kinh tế, quản trị kinh doanh, công nghệ thông tin. Các ngành nông, lâm, ngư nghiệp và thủy sản đang đối mặt với khủng hoảng tuyển sinh. Trong những năm 2016-2021, số lượng người học đăng ký vào các ngành này đã giảm hơn 30% so với trước. Năm 2022, nhóm ngành này chỉ chiếm chưa đến 2% tổng số sinh viên nhập học trên cả nước. Việc bỏ rơi các ngành đặc thù đang tạo ra sự mất cân bằng về cơ cấu nguồn nhân lực, đe dọa sự phát triển bền vững của các ngành kinh tế trọng điểm.
Hợp nhất để nâng cao chất lượng và đẳng cấp
Những mục tiêu mà Nghị quyết 71 đặt ra hoàn toàn không thể đạt được với một hệ thống bị phân mảnh, thiếu nguồn lực và hoạt động kém hiệu quả như hiện nay. Do đó, tái cấu trúc thông qua sáp nhập là con đường duy nhất để tập trung nguồn lực, tạo ra những ĐH đủ lớn mạnh, có khả năng cạnh tranh và hội nhập quốc tế.
Tại Hội nghị Giáo dục ĐH năm 2025 vừa qua, Bộ trưởng Bộ GD-ĐT Nguyễn Kim Sơn cho biết, với Nghị quyết 71, tinh thần chỉ đạo mang tính định hướng của Bộ Chính trị là: cách nhìn đúng hơn về vị trí, vai trò của giáo dục ĐH với đầu tư tương xứng. Mong muốn các trường ĐH phát triển tốc độ nhanh, mạnh hơn, định hướng rõ ràng hơn nữa. Từ đó có được đội ngũ nhân lực trình độ cao, đặc biệt trong lĩnh vực quốc gia đang có nhu cầu lớn. Theo bộ trưởng, quan điểm của Bộ GD-ĐT là khắc phục tình trạng manh mún, nhỏ lẻ, thiếu phát triển giữa các trường, đặc biệt là những trường gần nhau về lĩnh vực. Tinh thần là sắp xếp để các trường mạnh lên. P.V. |
Nhưng điều quan trọng, quá trình triển khai cần vượt qua tư duy hợp nhất cơ học, tức là không chỉ đơn thuần gộp các đơn vị lại bằng một văn bản hành chính. Thay vào đó, đây phải được xem là một quá trình quản trị sự thay đổi toàn diện, đòi hỏi một lộ trình chiến lược, chi tiết và lấy con người làm trung tâm.
Việc Bộ GD-ĐT đặt mục tiêu triển khai sáp nhập trong vòng 3 tháng tới là một thách thức rất lớn, đòi hỏi một kế hoạch cực kỳ chi tiết và quyết tâm chính trị cao độ.
Mọi quyết định trong quá trình sáp nhập, từ việc lựa chọn nhân sự lãnh đạo đến việc tái cấu trúc chương trình đào tạo, đều phải trả lời được câu hỏi: Điều này có giúp nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu không? Mục tiêu cuối cùng không phải là giảm đầu mối, mà là tạo ra những ĐH mạnh hơn.
Để quá trình sáp nhập không đi chệch hướng và đạt được mục tiêu đề ra, cần tuân thủ một số nguyên tắc cốt lõi. Thứ nhất, quy hoạch chiến lược. Quá trình sáp nhập phải dựa trên một đề án và lộ trình khoa học. Cần phải sàng lọc kỹ lưỡng: giải thể những trường quá yếu kém, sáp nhập những trường có lĩnh vực đào tạo bổ trợ cho nhau để tạo ra sức mạnh tổng hợp, tránh tình trạng một trường mạnh phải gánh một trường yếu và bị kéo lùi chất lượng.
Thứ hai, công khai, minh bạch và tạo sự đồng thuận: Yếu tố then chốt để vượt qua thách thức lớn nhất là tâm lý ngại thay đổi và lo ngại về lợi ích cá nhân. Có kế hoạch truyền thông chủ động, đa chiều tới tất cả bên liên quan: cán bộ, giảng viên, sinh viên, phụ huynh, xã hội. Đây là yếu tố sống còn để giảm thiểu tin đồn, sự phản kháng và xây dựng sự đồng thuận. Thứ ba, lựa chọn lãnh đạo tài năng và xây dựng quản trị hiệu quả. Một ban lãnh đạo có tài, có tâm, có khả năng dung hòa các văn hóa học thuật khác nhau sẽ dẫn dắt một tầm nhìn mới; tránh những xung đột nội bộ, tranh chấp quyền lực có thể làm chậm đà phát triển trong những năm đầu.
Thứ tư, quyền lợi của sinh viên và giảng viên phải được đặt lên hàng đầu. Có cơ chế đảm bảo việc học tập của sinh viên không bị gián đoạn; đồng thời có chính sách rõ ràng về việc sắp xếp, bố trí lại đội ngũ cán bộ, giảng viên một cách hợp lý và công bằng. Cuối cùng, thiết lập cơ chế giám sát và đánh giá sau sáp nhập. Cần có một bộ chỉ số để theo dõi và đánh giá hiệu quả hoạt động của các đơn vị mới một cách thường xuyên. Việc này giúp ban lãnh đạo có những điều chỉnh kịp thời, để quá trình hợp nhất đi đúng hướng và thực sự mang lại giá trị gia tăng.
Nếu được thực hiện cẩn trọng, bài bản và quyết liệt, đây sẽ là cú hích mạnh mẽ đưa giáo dục ĐH Việt Nam bứt phá. Cách làm sẽ quyết định liệu cơ hội lịch sử này có được chuyển hóa thành một bước tiến thực sự cho nền giáo dục nước nhà hay không.
Tinh gọn đại học công, cơ hội cho đại học tư Nghe có vẻ nghịch lý, nhưng việc tinh gọn và nâng cao chất lượng hệ thống ĐH công lập lại chính là cơ hội phát triển cho ĐH ngoài công lập. Hiện nay, hệ thống trường ĐH ngoài công lập chiếm khoảng 25% về số lượng trường và chưa đến 20% về số lượng sinh viên, nhưng đang phát triển nhanh hơn về đội ngũ giảng viên so với các trường ĐH công lập. Khi các trường công lập sáp nhập, trở nên tinh hoa và tập trung hơn vào nghiên cứu, họ có thể sẽ giảm bớt các chương trình đào tạo mang tính ứng dụng, đại trà. Các trường tư thục, với sự năng động của mình, có thể nhanh chóng lấp đầy khoảng trống này. Thêm vào đó, sự cạnh tranh gay gắt hơn về vị trí học thuật trong khối công lập sau sáp nhập sẽ thúc đẩy một bộ phận giảng viên giỏi dịch chuyển sang khu vực tư thục, nơi có chế độ đãi ngộ tốt. Cùng với sự đầu tư cơ sở vật chất, các trường ĐH tư thục có tiềm lực mạnh sẽ có cơ hội để bứt phá. Quá trình này sẽ định hình lại bản đồ giáo dục ĐH Việt Nam, tạo ra một sân chơi cạnh tranh thực sự và thúc đẩy một hệ sinh thái giáo dục đa dạng hơn. |
Tiến sĩ Nguyễn Đức Nghĩa - nguyên Phó giám đốc Đại học Quốc gia TPHCM