Phá thế độc quyền vàng miếng đi đôi với kiểm soát

30/05/2025 - 07:32

PNO - Tại buổi làm việc chiều 28/5 với Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương Đảng về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng, Tổng bí thư Tô Lâm đã yêu cầu xóa bỏ thế độc quyền của Nhà nước về thương hiệu vàng miếng một cách có kiểm soát. Phóng viên Báo Phụ nữ TPHCM có cuộc trao đổi với giáo sư, tiến sĩ Hoàng Văn Cường - Ủy viên Ủy ban Kinh tế - Tài chính của Quốc hội - xung quanh vấn đề này.

Phóng viên: Thưa ông, giải pháp phá thế độc quyền của Nhà nước về vàng miếng sẽ mang lại những gì? Liệu thị trường vàng có “bung ra” như trước khi có Nghị định 24/2012/NĐ-CP (Nghị định 24)?

Giáo sư, tiến sĩ Hoàng Văn Cường - ẢNH: H.A.
Giáo sư, tiến sĩ Hoàng Văn Cường - Ảnh: H.A

Giáo sư, tiến sĩ Hoàng Văn Cường: Nghị định 24 về quản lý hoạt động kinh doanh vàng ra đời năm 2012 trong bối cảnh “vàng hóa” nền kinh tế, tức là vàng không chỉ để tích lũy mà còn làm công cụ thanh toán. Nghị định 24 quy định, chỉ có Nhà nước được sản xuất, kinh doanh vàng miếng, nhằm hạn chế tình trạng dùng vàng làm công cụ thanh toán.

Chính sách này đã có tác dụng chống “vàng hóa” nền kinh tế một cách hiệu quả. Tuy nhiên, đến nay, khi người dân đã mua bán, giao dịch bằng tiền thì quy định trên không còn cần thiết. Do vàng bị độc quyền thương hiệu, độc quyền nhập khẩu nên giá cao vụt lên, thường xuyên cao hơn so với giá vàng của thế giới. Muốn thị trường vàng cân bằng trở lại, chúng ta phải xóa độc quyền vàng miếng, để nhiều đơn vị được quyền kinh doanh, từ đó bình ổn thị trường vàng.

Dù vậy, vàng là một loại tài sản tích trữ, không phải hàng hóa thông thường. Nếu xóa bỏ độc quyền nhưng lại mở một cách tự do thì sẽ có sự nhiễu loạn. Đặc biệt, hoạt động xuất nhập khẩu vàng liên quan đến ngoại tệ nên Nhà nước vẫn phải quản lý. Xóa bỏ độc quyền phải đi đôi với việc cho phép những đơn vị đủ điều kiện được kinh doanh vàng miếng. Những điều kiện kinh doanh tối thiểu là phải có năng lực tài chính, có uy tín, có lượng ngoại tệ đủ lớn để khi mua bán, kinh doanh thì không ảnh hưởng đến dự trữ ngoại tệ trong nước.

Mặt khác, để thị trường vàng trong nước liên thông với thế giới, các đơn vị kinh doanh phải được cấp phép xuất, nhập khẩu vàng. Dĩ nhiên, quy định này cũng đi kèm các điều kiện quản lý của Nhà nước.

Để hạn chế việc người dân đổ tiền ra mua bán vàng, Nhà nước phải có các chính sách quản lý. Việc áp thuế đối với việc mua bán vàng như Tổng bí thư Tô Lâm đề cập cũng là một trong những công cụ nhằm hạn chế việc mua, bán vàng để kiếm lời.

Khách mua bán vàng tại Công ty Vàng bạc đá quý Sài Gòn (SJC) quận 3, TPHCM - ẢNH: THANH HOA
Khách mua bán vàng tại Công ty Vàng bạc đá quý Sài Gòn (SJC) quận 3, TPHCM - Ảnh: Thanh Hoa

* Rất nhiều người dân có thói quen tích trữ vàng. Có cách nào để loại tài sản này không bị “đóng băng” khi nền kinh tế cần nhiều nguồn lực để phát triển, thưa ông?
- Chúng ta nên thay đổi cách mua bán vàng bằng vật chất như hiện nay. Thay vì mua vàng về cất trữ, có thể chuyển sang phương thức mua, bán vàng theo tài khoản. Ở đây, có 2 tầng nấc cần được phát triển. Thứ nhất, những công ty được cấp phép kinh doanh nhập khẩu vàng có thể mua bán thông qua các sàn vàng quốc tế; họ có thể thực hiện nhiều hợp đồng mua bán nhưng không nhất thiết phải sử dụng vàng vật chất.

Thứ hai, nếu để người dân tham gia thị trường quốc tế thì dễ gặp rủi ro, không mang lại lợi ích cho nền kinh tế, nên cần mở sàn thứ cấp trong nước do những công ty kinh doanh vàng lớn quản lý. Trên các sàn thứ cấp này, người dân có thể mua bán vàng qua phương tiện thanh toán điện tử, có thể cầm vàng về hoặc để ở dạng “tín chỉ vàng” trong tài khoản.

Nếu làm được như vậy thì người dân vô cùng thuận tiện, không mất công đi xếp hàng mua bán, không lo cất giữ, bảo quản vàng; công ty kinh doanh vàng cũng không cần tốn chi phí gia công vàng thỏi thành vàng miếng. Người dân có thể dễ dàng ký gửi vàng tại đơn vị kinh doanh; nguồn vàng đó cũng có thể tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu của công ty kinh doanh vàng, hạn chế việc phải bỏ ngoại tệ ra nhập vàng.

Do đó, tôi cho rằng, phải tính đến phương án huy động vàng mà dân đang tích trữ thành quỹ. Chúng ta có thể cấp phép cho các công ty chuyên nghiệp, đơn vị kinh doanh vàng trên thị trường quốc tế nhận ký gửi vàng với một mức lãi suất nhỏ. Khoản tiền này chỉ mang tính chất khuyến khích chứ không thúc đẩy đầu cơ vàng kiếm lợi. Với cách làm này, chúng ta sẽ huy động được cả nguồn vàng tích trữ trong dân, biến thành những nguồn lực cho đầu tư phát triển.

* Cũng có ý kiến lo rằng, xóa bỏ độc quyền vàng sẽ tạo ra môi trường cạnh tranh sòng phẳng nhưng cũng gây ra rủi ro về chất lượng. Ông nghĩ gì về điều này?
- Phải có vai trò kiểm soát của Nhà nước. Nhà nước phải ban hành các tiêu chuẩn, tiêu chí về vàng miếng để các đơn vị kinh doanh lựa chọn nhà cung cấp có uy tín. Nhà nước không thể chỉ trông chờ vào sự tự giác mà cần kiểm tra, kiểm soát, giám sát để doanh nghiệp không dám vi phạm, làm ẩu.

Để điều hành thị trường vàng hiệu quả, đúng nghĩa, phải tuân thủ nguyên tắc “có cung, có cầu”. Ngân hàng Nhà nước chỉ quản lý về mặt vĩ mô, không nên can thiệp sâu vào thị trường hay giao các tổ chức tín dụng bán vàng. Lâu nay, chúng ta quá tập trung vào thị trường vàng miếng, khi giá vàng miếng cao quá thì chuyển sang mua nhẫn. Đã đến lúc phải tạo kênh khác về vàng, đó là vàng trang sức. Thị trường vàng trang sức của Thái Lan đem lại 20 tỉ USD/năm. Việt Nam cũng cần phát triển lĩnh vực này.
* Xin cảm ơn ông.

Minh Quang

 

news_is_not_ads=
TIN MỚI