Đừng chăm chăm chạy theo số lượng

08/09/2025 - 07:09

PNO - Xuất khẩu nông sản Việt Nam đang khởi sắc với nhiều kỷ lục mới. Nhưng để đi xa và bền vững, nông nghiệp cần một cách làm mới với tính liên kết chặt chẽ hơn, chú trọng hơn đến sản xuất xanh và cần có nhiều hơn những thương hiệu nông sản quốc gia.

Nông dân tỉnh Vĩnh Long thu hoạch tôm. Giá bán 120.000-150.000 đồng 1kg giúp họ có lợi nhuận - ẢNH: HUỲNH LỢI
Nông dân tỉnh Vĩnh Long thu hoạch tôm. Giá bán 120.000-150.000 đồng 1kg giúp họ có lợi nhuận - Ảnh: Huỳnh Lợi

Từ đầu năm 2025 đến nay, xuất khẩu nông, lâm, thủy sản của nước ta có nhiều điểm sáng. Nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực tiếp tục khẳng định vị thế trên thị trường quốc tế. Tuy vậy, bức tranh xuất khẩu nông sản vẫn còn những gam màu tối. Các rào cản thuế quan, phi thuế quan, rào cản kỹ thuật và quy định về an toàn thực phẩm của các nước nhập khẩu liên tục thay đổi, tạo sức ép lớn.

Một số thị trường chủ lực như Mỹ, EU gia tăng các biện pháp phòng vệ thương mại, yêu cầu khắt khe hơn về dư lượng kháng sinh, truy xuất nguồn gốc. Nhật Bản, Hàn Quốc liên tục cập nhật tiêu chuẩn an toàn, buộc doanh nghiệp (DN) Việt Nam phải đáp ứng.

Trong khi đó, ở trong nước, tình trạng sản xuất manh mún, chất lượng nguồn nguyên liệu chưa đồng đều, năng lực bảo quản, chế biến sau thu hoạch còn hạn chế. Những vụ trái cây ùn ứ ở cửa khẩu hay thủy sản bị trả về là lời cảnh báo rằng chúng ta chưa thực sự chủ động trong kiểm soát chất lượng và tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế.

Xu hướng tiêu dùng toàn cầu cũng đang thay đổi mạnh mẽ. Người tiêu dùng quan tâm nhiều hơn đến sức khỏe, môi trường và tính minh bạch. Nông sản xanh, sạch, hữu cơ ngày càng chiếm ưu thế. Nếu không nhanh chóng chuyển đổi, chúng ta sẽ mất đi cơ hội trong cuộc chơi mới của thương mại toàn cầu.

Trong bối cảnh ấy, liên kết trở thành yếu tố then chốt. Muốn nông sản Việt vươn xa, phải hình thành các chuỗi ngành hàng bền vững, từ sản xuất, chế biến đến tiêu thụ. Nông dân, hợp tác xã cần gắn bó lâu dài với DN bằng những hợp đồng rõ ràng, cùng chia sẻ lợi ích và rủi ro. DN cần đầu tư vào công nghệ chế biến, kho lạnh, logistics hiện đại để nâng cao giá trị gia tăng. Chỉ khi có vùng nguyên liệu chuẩn, DN mới yên tâm mở rộng sản xuất, tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu.

Về lâu dài, chúng ta không thể tiếp tục cách làm manh mún, chạy theo lợi nhuận ngắn hạn. Sản xuất phải giảm phát thải, đáp ứng các cam kết quốc tế về ứng phó với biến đổi khí hậu. Đây không chỉ là yêu cầu từ bên ngoài mà còn là con đường để nâng tầm thương hiệu, đưa nông sản Việt vào nhóm hàng hóa có giá trị gia tăng cao.

Thương hiệu quốc gia cũng cần được coi trọng. Thay vì mạnh ai nấy làm, cần một chiến lược chung để định vị gạo Việt, tôm Việt, trái cây Việt… trên bản đồ thế giới. Thương hiệu không chỉ nằm ở sản phẩm cụ thể mà còn ở hình ảnh quốc gia xuất khẩu uy tín, an toàn và bền vững.

Từ nay đến cuối năm, để đạt mục tiêu 65 tỉ USD, cần thúc đẩy 3 nhóm giải pháp. Trước hết là đẩy nhanh tiến độ thu hoạch, chế biến và giao hàng. Thứ hai là kiểm soát chặt chẽ chất lượng để hạn chế tình trạng trả hàng về, đồng thời mở rộng thị trường mới như Nam Mỹ, Trung Đông, châu Phi, giảm phụ thuộc vào một số thị trường truyền thống. Thứ ba là tăng cường liên kết giữa nông dân, hợp tác xã, DN và hiệp hội ngành hàng, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn hệ thống.

Muốn vươn xa hơn, không thể mãi chạy theo số lượng hay cơ hội ngắn hạn. Liên kết là con đường tất yếu. Khi sản xuất gắn với chế biến, khi nông dân bắt tay với DN trong chuỗi sản xuất xanh, khi thương hiệu quốc gia được định hình rõ ràng thì nông sản Việt không chỉ hiện diện nhiều hơn ở các siêu thị trên thế giới mà còn chinh phục niềm tin của người tiêu dùng toàn cầu.

Tiến sĩ Trần Hữu Hiệp

 

news_is_not_ads=
TIN MỚI