Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thanh Hóa vừa khởi tố vụ án gian lận trong kinh doanh bảo hiểm liên quan đến Nguyễn Thị Thu và mẹ ruột là bà Trần Thị Thập. Theo điều tra ban đầu, năm 2020, Thu cùng mẹ dựng hiện trường giả chết, tổ chức tang lễ và hoàn tất thủ tục khai tử để chiếm đoạt hơn 1 tỉ đồng tiền bảo hiểm. Sau khi nhận tiền, người “đã khuất” rời địa phương, sống lẩn trốn suốt nhiều năm trước khi bất ngờ quay về xin xóa khai tử và bị phát hiện.
 |
| Công an kiểm tra ngôi mộ giả của Nguyễn Thị Thu (bên trái) - Ảnh: Công an Thanh Hóa |
Nhìn trên hồ sơ pháp lý, đây là một vụ trục lợi có tổ chức, với thủ đoạn tinh vi và số tiền chiếm đoạt lớn. Nhưng vụ việc đâu chỉ dừng lại ở con số và khung hình phạt. Bởi khi một người chấp nhận chết trên giấy tờ, họ không chỉ lừa dối doanh nghiệp bảo hiểm mà đã chủ động cắt đứt mối liên hệ căn bản nhất giữa mình và đời sống xã hội. Đó là quyền được tồn tại hợp pháp. Từ khoảnh khắc ấy, người đó không còn là một công dân đầy đủ, họ trở thành một cá thể sống ngoài hệ thống, ngoài sự công nhận, ngoài mọi cơ chế bảo vệ.
Một người không còn tên trong hộ tịch là một người không thể đứng trong ánh sáng. Không thể sống thẳng lưng như người khác, không thể ký tên vào bất kỳ giấy tờ nào, không thể xuất hiện công khai trong những mối quan hệ quan trọng của đời mình. Cuộc sống buộc phải đi vòng, nói nhỏ, giấu mặt, nhờ vả. Không còn là sống đúng nghĩa, đó là một dạng lưu đày tự nguyện, nơi con người tự đẩy mình ra khỏi đời sống công dân.
Điều đáng suy ngẫm là rất ít ai khi đứng trước một khoản tiền lớn có thể hình dung được cái giá thật sự phải trả. Tiền thì rõ ràng, cụ thể, cầm được, đếm được. Còn tự do lại quá trừu tượng. Chỉ đến khi mất đi, người ta mới nhận ra tự do thực chất nằm trong những điều rất nhỏ. Là việc được mở cửa nhà mình lúc tối muộn mà không sợ ai dò hỏi. Là được ngủ một giấc sâu, không giật mình vì lo bị phát hiện. Là được bước vào bệnh viện, trường học, cơ quan công quyền bằng chính tên mình, không phải mượn thân phận của người khác để tồn tại.
Vụ việc này còn phơi bày một nghịch lý rất đau. Người ta chọn giả chết với lý do lo cho gia đình, cho con cái. Nhưng cho dù đó là lý do thật sự đi chăng nữa thì chính lựa chọn ấy lại tước đi điều quan trọng nhất mà gia đình cần. Đó là sự hiện diện thật sự của một người đang sống. Một đứa trẻ có thể lớn lên trong thiếu thốn vật chất. Nhưng một đứa trẻ lớn lên trong sự vắng mặt kéo dài, trong những câu chuyện không thể nói trọn, trong nỗi sợ phải giấu giếm thân phận của người thân thì sự thiếu hụt ấy không dễ bù đắp.
Sống không danh phận cũng đồng nghĩa với việc không còn quyền được yếu đuối. Khi bệnh nặng hơn, khi tai nạn xảy ra, khi cuộc sống vượt khỏi tầm kiểm soát, người “đã chết” không thể kêu cứu một cách chính danh. Không có pháp luật đứng phía sau. Không có hệ thống xã hội bảo vệ. Mọi rủi ro đều phải gánh một mình, trong im lặng. Đó là một trạng thái sống cô độc, nơi con người bị buộc phải mạnh mẽ liên tục, cho đến khi kiệt sức.
Điều khiến vụ việc này ám ảnh có lẽ ở khoảnh khắc con người đánh giá thấp giá trị của việc được sống đúng danh phận. Chỉ khi bị tước bỏ, ta mới hiểu rằng được xã hội công nhận sự tồn tại của mình không phải điều hiển nhiên. Nó là nền móng để con người được yêu thương, được bảo vệ, được sai, được sửa, và được quay về.
Bản án nặng nề nhất đối với Nguyễn Thị Thu có lẽ đã được thi hành từ rất lâu rồi, ngay từ ngày chấp nhận “chết” trên giấy tờ. Đó là những năm tháng sống như một người vô hình, xa con, xa gia đình, xa cộng đồng, không được gọi tên, không được hiện diện trọn vẹn trong bất kỳ mối quan hệ nào.
Sau cùng, vụ việc này còn cho thấy rằng trong những lúc tuyệt vọng nhất, chúng ta có đang đánh đổi quá dễ dàng những thứ tưởng như không thể đo lường. Và rằng có những điều một khi đã mất đi thì dù có bao nhiêu tiền trong tay, con người vẫn không thể chuộc lại quyền được sống một đời bình thường, tự do và đường hoàng.
Minh Trung