Làm sao để đô thị lớn không còn “mờ mờ nhân ảnh”?

16/12/2025 - 06:27

PNO - Trong nhiều ngày qua, chất lượng không khí ở TP Hà Nội và TPHCM luôn ở mức “xấu” và “rất xấu” theo ghi nhận của ứng dụng (app) theo dõi chất lượng không khí trực tuyến IQAir. Hơn 10g mà đường sá cứ mờ mờ và mọi người cảm nhận rõ sự ngột ngạt, khó chịu. Tình trạng này thường tái diễn vào mùa đông hằng năm.

Bụi từ công trình thi công trên đường Nguyễn Xiển, phường Long Bình, TPHCM khiến người đi đường ngạt thở ẢNH: NGUYỄN VĂN
Bụi từ công trình thi công trên đường Nguyễn Xiển, phường Long Bình, TPHCM khiến người đi đường ngạt thở. Ảnh: Nguyễn Văn

Chất lượng không khí thường xuyên ở mức xấu

Sáng 13/12, hơn 10g nhưng nhiều nơi ở TPHCM, bầu không khí vẫn đục ngầu như sương mù, tầm nhìn giảm rõ rệt. Theo IQAir, chất lượng không khí tại nhiều điểm đo nằm ở mức cảnh báo đỏ, nghĩa là mức “có hại cho sức khỏe”.

Theo Sở Xây dựng TPHCM, ô nhiễm không khí do nhiều nguồn gây ra như công nghiệp, giao thông vận tải, sinh hoạt, nhưng giao thông đường bộ là nguồn phát thải lớn nhất, chiếm 88% tổng lượng bụi từ giao thông, đóng góp tới 40% nồng độ bụi mịn (PM2.5).

Hiện nay, nồng độ PM2.5 trung bình năm ở TPHCM là 31µg/m³, cao gấp 6 lần so với khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) là 5µg/m³. TPHCM hiện có hơn 7,6 triệu chiếc xe máy, 700.000 chiếc ô tô, gần 2 triệu phương tiện từ các địa phương khác ra vào mỗi ngày. Mỗi năm, TPHCM phát thải hơn 60 triệu tấn CO₂ (23% tổng phát thải quốc gia), 35 triệu tấn các bon (carbon), trong đó giao thông chiếm 13 triệu tấn.

Từ đầu tháng Mười hai đến nay, TP Hà Nội cũng thường xuyên bị màn sương mù xám đục bao phủ. Hà Nội nhiều lần bị xếp vào nhóm các thành phố ô nhiễm nhất thế giới. Các chỉ số AQI (Air Quality Index) thường xuyên duy trì ở ngưỡng cao, với mức “rất có hại” (201-300). Theo ghi nhận của ứng dụng IQAir, vào các ngày 7, 9 và 12/12, chỉ số này có lúc chạm mức “nguy hiểm” (trên 301). Riêng trong ngày 12/12, một số điểm đo ghi nhận chỉ số AQI lên tới 304.

Theo các chuyên gia môi trường, thủ phạm chính gây ra tình trạng này là bụi mịn PM2.5, với nồng độ cao vượt xa nhiều lần so với tiêu chuẩn an toàn. Nguyên nhân sâu xa của việc gia tăng ô nhiễm là sự kết hợp giữa các yếu tố thời tiết bất lợi - đặc trưng là hình thái lặng gió và sương mù mùa đông - làm giảm khả năng khuếch tán khí thải, cùng với nguồn phát thải lớn từ chính Hà Nội và các tỉnh lân cận.

Các nguồn phát thải chủ yếu bao gồm mật độ giao thông cao, bụi từ các công trình xây dựng, khói bụi từ hoạt động sản xuất, làng nghề và việc đốt rơm rạ ở vùng ven. Theo ứng dụng IQAir, trong 30 ngày qua, có đến 22 ngày, chất lượng không khí ở Hà Nội kém và xấu, cho thấy ô nhiễm không khí không còn là hiện tượng đột ngột mà kéo dài. Hiện tượng này được lặp đi lặp lại từ tháng Mười đến tháng Tư năm sau.

Trước tình trạng ô nhiễm không khí này, các cơ quan chức năng của TP Hà Nội đã phải ban hành chỉ thị yêu cầu tăng cường các biện pháp khẩn cấp như tạm dừng các hoạt động đào lòng đường, vỉa hè không cần thiết để giảm bụi.

Khu vực cầu Sài Gòn (TPHCM) mờ ảo trong màn bụi mù - ẢNH: NGUYỄN VĂN
Khu vực cầu Sài Gòn (TPHCM) mờ ảo trong màn bụi mù - Ảnh: Nguyễn Văn

Nhận diện nguồn gây ô nhiễm

Tiến sĩ Hoàng Dương Tùng - Chủ tịch Mạng lưới Không khí sạch Việt Nam - cho biết, qua các báo cáo và kết quả quan trắc những năm gần đây, có thể khẳng định, tình trạng ô nhiễm không khí ở một số đô thị lớn của Việt Nam đang ở mức khá nghiêm trọng và mức độ ô nhiễm có xu hướng tăng.

Chỉ số AQI về chất lượng không khí ở TP Hà Nội và một số tỉnh phía Bắc có những ngày ở mức rất cao, đặc biệt là trong các tháng mùa đông. Ô nhiễm không khí ở Việt Nam không còn diễn ra cục bộ, ngắn hạn mà mang tính chu kỳ, kéo dài, lặp đi lặp lại qua nhiều năm.

Theo ông, nhận thức của người dân về ô nhiễm không khí trong những năm gần đây đã thay đổi rõ rệt. Người dân không còn đổ lỗi cho thời tiết khi cảm thấy khó thở, mệt mỏi mà đã biết đó là hệ quả trực tiếp của ô nhiễm môi trường.

Các thuật ngữ như “AQI”, “bụi mịn PM2.5” không còn xa lạ. Ngày càng nhiều người theo dõi chỉ số chất lượng không khí hằng ngày để chủ động điều chỉnh hoạt động sinh hoạt, bảo vệ sức khỏe. Những hành vi tích cực cũng đã và đang hình thành trong cộng đồng như hạn chế đốt rác, đốt rơm rạ sau thu hoạch; sử dụng phương tiện công cộng nhiều hơn; tắt máy xe khi dừng đèn đỏ; từ bỏ bếp than tổ ong; thường xuyên dọn vệ sinh đường phố, khu dân cư.

Tuy nhiên, ông lo ngại: “Nếu ô nhiễm kéo dài, người dân có thể dần chấp nhận tình trạng không khí xấu như một điều bình thường trong đời sống đô thị. Khi đã chấp nhận thực trạng thì động lực để thay đổi sẽ ngày càng mờ nhạt”.

Ông nêu ví dụ, nếu mọi người đều nghĩ rằng 1 chiếc xe máy phát thải chẳng đáng là bao thì 7 triệu chiếc xe máy sẽ thành nguồn ô nhiễm khổng lồ. Ông nói: “Nếu từng cá nhân không có ý thức bảo dưỡng phương tiện, không từng bước chuyển đổi sang nhiên liệu sạch, không hạn chế sử dụng xe máy thì chính họ đang góp phần làm trầm trọng thêm tình trạng ô nhiễm không khí”.

Tiến sĩ Phạm Viết Thuận - Viện trưởng Viện Kinh tế tài nguyên và môi trường TPHCM - cho rằng, nói “TPHCM ô nhiễm không khí do giao thông” là đúng nhưng chưa phản ánh đầy đủ bản chất của vấn đề. TPHCM có xuất hiện bụi và khí thải nhưng chưa vượt ngưỡng quy chuẩn, không đến mức “ô nhiễm nghiêm trọng” như nhiều báo cáo hoặc ứng dụng quốc tế công bố.

Ông lý giải, ở hướng nam và bắc của TPHCM đều có gió cấp 7 nên tốc độ khuếch tán không khí rất mạnh. Do vậy, khả năng thành phố bị tích tụ CO₂ hay các khí thải bền vững trong không khí là rất thấp bởi các luồng gió mạnh từ biển liên tục cuốn và hòa loãng khí thải trong đô thị. TP Hà Nội chịu điều kiện khí tượng bất lợi, gió yếu, địa hình trũng nên hiện tượng mù và ô nhiễm dễ xảy ra hơn.

Theo ông, điều đáng lo ngại ở TPHCM không phải CO₂ mà là khí methane (CH₄) - loại khí phát sinh từ cống rãnh, hầm cầu, bùn thải, phân hủy hữu cơ trong đô thị: “Đây là thứ mà người dân cảm nhận rõ nhất qua mùi hôi từ hố ga, kênh rạch hoặc trong nhà nếu hệ thống thoát khí không đảm bảo. Khí methane không chỉ gây khó chịu mà còn độc hại hơn CO₂ nhiều lần, nhưng lại ít được nhắc đến trong các báo cáo truyền thông”.

Có 4 nguồn gây ô nhiễm chính là giao thông, hoạt động công nghiệp, bụi tự nhiên và từ việc đốt phụ phẩm nông nghiệp nhưng theo tiến sĩ Phạm Viết Thuận, số liệu về tỉ lệ đóng góp của từng nguồn còn thiếu nhất quán, thậm chí mâu thuẫn giữa các đơn vị đo.

Ông nhận xét, TPHCM vẫn có những thời điểm nồng độ PM2.5 tăng cao do việc xây dựng công trình, do mặt đường khô, không khí ít ẩm nhưng mức độ vẫn chưa đến ngưỡng ô nhiễm nguy hiểm và người dân có thể đeo khẩu trang để hạn chế mức độ ảnh hưởng. Riêng với khí methane, khẩu trang không có tác dụng.

Theo ông, giao thông xanh là giải pháp tốt để giảm ô nhiễm không khí. Ông đồng tình việc chuyển dần xe xăng sang xe điện, áp dụng sớm với đội ngũ giao hàng, xe ôm công nghệ, bên cạnh đó là triển khai phương tiện giao thông công cộng sạch, giảm mùi khí thải. Ông cũng lưu ý, không nên nhầm lẫn rằng đây là biện pháp chống “ô nhiễm CO₂ nghiêm trọng”.

Ô tô cũ thải khói đen kịt trên đường Hoàng Văn Thụ, phường Tân Sơn Nhất, TPHCM - ẢNH: NGUYỄN VĂN
Ô tô cũ thải khói đen kịt trên đường Hoàng Văn Thụ, phường Tân Sơn Nhất, TPHCM - Ảnh: Nguyễn Văn

Chưa quan tâm đúng mức công tác dự báo ô nhiễm

Mức độ ô nhiễm ở TP Hà Nội là nghiêm trọng, còn ở các vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, nhất là TPHCM, là đáng lo ngại. Ở TP Hà Nội, khí hậu chịu trách nhiệm khá lớn trong việc tạo ra ô nhiễm, trong đó vận tốc gió là yếu tố tác động lớn nhất. Đáng chú ý, từ tháng Mười một đến tháng Tư năm sau, chiều cao tầng biên ở Hà Nội thường rất thấp khiến ô nhiễm tích tụ nặng nề hơn ở mặt đất.

Hiện nay, việc ứng dụng công cụ mô hình hóa vào công tác dự báo ô nhiễm chưa được quan tâm đúng mức. Cần khẩn trương xây dựng mạng lưới quan trắc không khí dưới đất thật tốt và ứng dụng mạnh mẽ các mô hình mới để thúc đẩy các giải pháp giảm thiểu ô nhiễm. Trước mắt, cần xây dựng các điểm quan trắc và chương trình mô hình hóa để dự báo chất lượng không khí ở Hà Nội trước 5 ngày để người dân và cơ quan quản lý chủ động ứng phó.

Vừa qua, nhóm nghiên cứu Envim đề xuất một lộ trình hành động toàn diện. Về ngắn hạn, cần tăng cường giám sát, mở rộng mạng lưới quan trắc và công bố dữ liệu AQI theo thời gian thực; kiểm soát nguồn phát thải bằng cách hạn chế xe cá nhân trong giờ cao điểm, khuyến khích phương tiện công cộng và kiểm tra khí thải xe cơ giới thường xuyên; giảm phát thải từ xây dựng và dân sinh bằng việc che chắn công trình, hạn chế đốt rơm rạ, khuyến cáo sử dụng nhiên liệu sạch trong hộ gia đình; yêu cầu các nhà máy giảm công suất hoặc tạm dừng khi vượt ngưỡng phát thải; khuyến cáo cộng đồng đeo khẩu trang, hạn chế hoạt động ngoài trời khi không khí ở mức nguy hại.

Về dài hạn, cần chuyển đổi công nghệ sản xuất, khuyến khích sử dụng năng lượng tái tạo, cải tiến công nghệ đốt nhiên liệu. Cải cách giao thông đô thị là trọng tâm, với mục tiêu loại bỏ dần xe máy chạy xăng ở trung tâm thành phố và phát triển mạnh mẽ metro, xe buýt điện cùng hạ tầng giao thông xanh. Cần hiện đại hóa việc quản lý chất thải, môi trường; chú trọng mảng xanh khi quy hoạch đô thị (tăng diện tích cây xanh, hồ nước) nhằm hấp thụ bụi mịn và giảm hiệu ứng đảo nhiệt.

Cơ quan quản lý nhà nước cần hoàn thiện khung pháp lý với các quy chuẩn khí thải nghiêm ngặt hơn, tăng cường giám sát và chế tài nghiêm khắc. Cần đẩy nhanh lộ trình loại bỏ xe máy chạy xăng, phát triển giao thông công cộng. Việc khuyến khích năng lượng sạch và hợp tác liên vùng kiểm soát nguồn ô nhiễm cũng là yêu cầu cấp thiết.

Doanh nghiệp cần đổi mới công nghệ sản xuất, đầu tư hệ thống xử lý khí thải, tích hợp năng lượng tái tạo và công khai báo cáo phát thải. Về phía cộng đồng, mỗi người dân cần thay đổi hành vi tiêu dùng, giảm sử dụng xe cá nhân, hạn chế đốt rơm rạ, chú trọng sử dụng nhiên liệu sạch, tham gia giám sát, phản ánh vi phạm môi trường.

Giáo sư, tiến sĩ BÙI TÁ LONG - nguyên giảng viên cao cấp Trường đại học Bách khoa (Đại học Quốc gia TPHCM)

Nên ĐẨY MẠNH phát triển năng lượng tái tạo

Theo tôi, giải pháp cho vấn đề ô nhiễm không khí ở Việt Nam hiện nay là hạ hệ số phát thải của lưới điện xuống dưới 0,5 thông qua phát triển năng lượng tái tạo như điện mặt trời áp mái, năng lượng dọc tuyến đường và hệ thống pin thay nhanh để xe điện thực sự giúp giảm phát thải. Đồng thời, nên áp dụng các cơ chế thị trường như tín chỉ nhiên liệu, tín chỉ phát thải, tín chỉ hiệu suất năng lượng giống như Mỹ, EU và Trung Quốc.

Phó giáo sư, tiến sĩ NGUYỄN ĐÌNH THỌ - Phó viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách nông nghiệp và môi trường

Nguyễn Văn - Minh Tâm (ghi)


Tứ Quý - Minh Tuệ

 

news_is_not_ads=
TIN MỚI