Tiểu thương than "không có lãi"
Theo đề án, mức thuế suất cụ thể là bán hàng 1,5%; sản xuất, vận tải, ăn uống 4,5%; dịch vụ khác 7%. Các hộ kinh doanh bán lẻ, dịch vụ trực tiếp cho người tiêu dùng có doanh thu từ 1 tỉ đồng trở lên mỗi năm phải sử dụng máy tính tiền có kết nối với cơ quan thuế để xuất hóa đơn điện tử.
Chị N.N. - tiểu thương chợ An Đông, phường An Đông, TPHCM - cho rằng, sức mua kém nên các quy định như trên khiến tiểu thương càng thêm khốn đốn. Chẳng hạn, tiểu thương có doanh thu 205 triệu đồng/năm, tương đương 560.000 đồng/ngày, sau khi trừ đi các chi phí mặt bằng, nhân công thì lợi nhuận đã rất thấp, chỉ còn khoảng 5%. Đó là chưa kể rủi ro tồn hàng, hao hụt. Nay, phải chịu thêm tiền thuế 1,5% thì hầu như không có lợi nhuận. Chị kiến nghị nâng mức doanh thu để kê khai thuế lên 500 triệu đồng/năm.
 |
| Tiểu thương chợ An Đông cho rằng, sẽ rất khó sống nếu kê khai và đóng thuế theo doanh thu khi có doanh thu trên 200 triệu đồng/năm |
Chị Ngọc Thúy - tiểu thương kinh doanh nông sản ở chợ đầu mối Hóc Môn, TPHCM - cho hay, nông sản chịu ảnh hưởng của thời tiết và thời vụ nên việc kinh doanh rất bấp bênh. Đã vậy, tiểu thương trong chợ phải chịu thuế, phí, tiền thuê quầy sạp. Lâu nay, tiểu thương trong chợ đã cạnh tranh không lại những người bán hàng bên ngoài chợ do họ không phải chịu những chi phí này. Nay ngưỡng doanh thu chịu thuế của 2 đối tượng này vẫn như nhau là không công bằng với tiểu thương trong chợ.
Nên "giảm trừ gia cảnh" cho người bán lẻ
Luật sư Nguyễn Đức Nghĩa - Chủ tịch Đại lý thuế Trí Nguyễn - phân tích, mức giảm trừ gia cảnh cho người nộp thuế thu nhập cá nhân (TNCN) là 11 triệu đồng/tháng và người phụ thuộc là 4,4 triệu đồng/tháng. Với hộ có vợ, chồng và 2 con (tức 2 người nộp thuế và 2 người phụ thuộc), tổng thu nhập miễn thuế để đủ sống theo Luật Thuế TNCN hiện hành là 30,8 triệu đồng/tháng, tức 370 triệu đồng/năm. Đây là mức thu nhập sau khi đã trừ đi các chi phí cần thiết.
Nếu giả định tỉ lệ lợi nhuận (thu nhập) của hộ kinh doanh đạt 50% (một mức được coi là giỏi) thì tổng doanh thu tối thiểu để đạt mức thu nhập này phải là 740 triệu đồng/năm. Do đó, doanh thu chịu thuế hợp lý cần được nâng lên mức ít nhất 1 tỉ đồng/năm. Với doanh thu này, sau khi trừ tiền nhập hàng và các chi phí khác (giả định lợi nhuận khoảng 40%), thu nhập còn lại khoảng 400 triệu đồng. Mức này mới phù hợp với nhu cầu trang trải cuộc sống cơ bản của một gia đình, đảm bảo họ có đủ điều kiện để tích lũy và phát triển. Ngưỡng doanh thu 200 triệu đồng là quá thấp, bởi đó là doanh thu chứ không phải thu nhập.
Theo ông, việc so sánh ngưỡng chịu thuế 200 triệu đồng của Việt Nam với các nước phát triển như Singapore, Hàn Quốc, Nhật Bản là khập khiễng, do thu nhập bình quân đầu người của họ rất cao. Ở các nước này, mức thu nhập không chịu thuế có thể lên tới 5.000-7.000 USD (tương đương 150 triệu đồng)/tháng. Do đó, khi tham khảo chính sách thuế của các nước thì cần xét mức thu nhập bình quân đầu người của họ.
Cũng theo luật sư Nguyễn Đức Nghĩa, khi xây dựng chính sách thuế, Quốc hội, Chính phủ, Bộ Tài chính cần đảm bảo người nộp thuế có đủ điều kiện trang trải cuộc sống và có điều kiện để tích lũy, phát triển kinh doanh. Nếu ngưỡng 200 triệu đồng được giữ nguyên, nó sẽ gây ra những tác động tiêu cực. Người dân sẽ chọn đi làm thuê thay vì đầu tư kinh doanh, bởi làm thuê ít rủi ro và không phải đối mặt với các khoản thuế phức tạp. Người kinh doanh cũng có thể chuyển sang các ngành nghề tự do như chạy xe ôm, bán hàng rong để không chịu sự quản lý chặt chẽ... Hoặc có người vẫn kinh doanh nhưng cố tình giấu doanh thu, làm phức tạp công tác quản lý thuế.
Tiến sĩ Phan Phương Nam - Phó trưởng khoa Luật Thương mại, Trường đại học Luật TPHCM - nhận định, quy định ngưỡng doanh thu chịu thuế đối với hộ kinh doanh cá thể là 200 triệu đồng/năm đã làm dấy lên nhiều tranh luận về tính hợp lý và công bằng, đặc biệt là khi so sánh với quy định về giảm trừ gia cảnh trong thuế TNCN đối với người làm công ăn lương. Mặc dù Nhà nước đã thay đổi cách tính thuế cho hộ kinh doanh theo hướng nhân văn hơn (chuyển từ đánh trên toàn bộ doanh thu sang đánh trên thu nhập thực tế, tức là doanh thu trừ chi phí) nhưng điểm bất công lớn nhất nằm ở phương pháp tính thuế. Dù đã tính trên thu nhập, hộ kinh doanh vẫn không được giảm trừ gia cảnh như người làm công ăn lương.
Theo ông, để đảm bảo sự công bằng tuyệt đối giữa mọi cá nhân (dù là người làm công hay kinh doanh), nên lấy thu nhập từ tiền công, tiền lương (nếu có) cộng với thu nhập từ kinh doanh (doanh thu trừ chi phí) rồi lấy tổng thu nhập này để giảm trừ gia cảnh theo quy định. Giải pháp này sẽ đảm bảo mọi cá nhân đều được trừ đi một khoản chi phí sinh hoạt cơ bản trước khi tính thuế. Nếu tổng thu nhập sau khi giảm trừ vẫn là số dương, họ mới phải nộp thuế.
Về ý kiến đề xuất nâng ngưỡng doanh thu chịu thuế lên 1 tỉ đồng/năm, tiến sĩ Phan Phương Nam cho rằng, điều này khó khả thi bởi việc nâng ngưỡng quá cao sẽ làm giảm đáng kể nguồn thu của Nhà nước và vì nhiều ngành nghề kinh doanh (như ăn uống) có biên lợi nhuận cao. Với doanh thu 1 tỉ đồng, thu nhập thực tế có thể là 400-500 triệu đồng/năm, là mức cao hơn nhiều so với thu nhập được miễn thuế của người làm công ăn lương, tạo ra sự bất công rõ rệt.
Theo ông, ngành thuế đã quy định tỉ lệ tính thuế dựa trên doanh thu cho từng ngành nghề nhưng việc cho phép hộ kinh doanh được giảm trừ gia cảnh trên thu nhập từ kinh doanh vẫn là giải pháp căn cơ, giúp họ không còn lo rằng “không đủ sống” với ngưỡng doanh thu 200 triệu đồng/năm.
Thanh Hoa