Sau 10 năm, trẻ béo phì ở thành thị tăng hơn 3 lần

15/04/2021 - 11:41

PNO - Tỷ lệ trẻ thừa cân, béo phì ở Việt Nam trong năm 2020 tăng hơn 3 lần so với cách đây 10 năm.

Trẻ thừa cân, béo phì ở Việt Nam tăng hơn gấp 2 lần trong 10 năm, ở thành thị tăng hơn 3 lần
Sau 10 năm, trẻ thừa cân, béo phì ở Việt Nam tăng hơn gấp 2 lần, riêng ở thành thị tăng hơn 3 lần

Người Việt ăn nhiều thịt, ít cơm

Sáng 15/4, Viện Dinh dưỡng quốc gia (Bộ Y tế) công bố kết quả Tổng điều tra dinh dưỡng toàn quốc 2019 - 2020.

Ông Lê Danh Tuyên, Viện trưởng Viện Dinh dưỡng quốc gia cho biết, đây là cuộc tổng điều tra dinh dưỡng có quy mô lớn nhất từ trước đến nay ở phạm vi quốc gia với sự tham gia của 22.400 hộ gia đình tại 25 tỉnh/thành phố đại diện cho 6 vùng sinh thái. Nhóm nghiên cứu thực hiện thu thập đồng thời các chỉ số về nhân trắc, vi chất dinh dưỡng, khẩu phẩn ăn cá thể cũng như thông tin về an ninh lương thực và an toàn vệ sinh thực phẩm.

Về khẩu phần ăn của người dân năm 2020, mức ăn rau quả đã tăng bình quân, nhưng cũng mới chỉ đạt khoảng 66,4% - 77,4% so với nhu cầu khuyến nghị của tháp dinh dưỡng cho người trưởng thành.

Mức tiêu thụ thịt tăng nhanh, hơn 1,5 lần, từ 84g/người/ngày (năm 2010) tăng lên 136,4g/người/ngày (năm 2020); khu vực thành phố tiêu thụ cao hơn. Trong khi đó, mức tiêu thụ gạo có xu hướng giảm. Tại các trường học ở thành phố có xu hướng tăng tiêu thụ các loại nước ngọt và thức ăn nhanh.

Tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi (chiều cao/tuổi) ở trẻ em dưới 5 tuổi trên toàn quốc là 19,6%, được xếp vào mức trung bình theo phân loại của Tổ chức Y tế Thế giới. Như vậy, tính đến nay Việt Nam đang trên đà đạt được mục tiêu Dinh dưỡng toàn cầu (giảm 40% suy dinh dưỡng thấp còi trẻ em đến năm 2025). Tuy nhiên, vẫn còn sự chênh lệch giữa các vùng miền về tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi; ở các vùng nông thôn và miền núi tỷ lệ này còn ở mức cao.

Tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ em tuổi học đường (5 - 19 tuổi) còn 14,8% (năm 2010 tỷ lệ này là 23,4%). Rất đáng lưu ý là tỷ lệ thừa cân, béo phì tăng từ 8,5% năm 2010 lên thành 19% năm 2020 (gấp hơn 2 lần), trong đó ở khu vực thành thị là 26,8% (gấp hơn 3 lần), nông thôn là 18,3% và miền núi là 6,9%.

Tổng điều tra
Viện Dinh dưỡng quốc gia công bố kết quả Tổng điều tra dinh dưỡng 2019 - 2020

Trẻ dưới 5 tuổi thiếu kẽm nặng

Chiều cao đạt được của thanh niên Việt Nam đã có sự thay đổi đáng kể. Năm 2020, nhóm thanh niên nam 18 tuổi đạt 168,1cm (tăng 3,7 cm so với năm 2010), nữ đạt 156,2cm (tăng 1,4 cm so với năm 2010).

Thống kê cũng cho thấy có sự cải thiện rõ rệt, tỷ lệ thiếu vitamin A tiền lâm sàng và thiếu máu đã ở mức nhẹ về ý nghĩa sức khỏe cộng đồng. Riêng phụ nữ có thai tỷ lệ thiếu máu ở mức trung bình. Giảm tỷ lệ thiếu vitamin A tiền lâm sàng ở trẻ em 6-59 tháng (2010 - 2020).

Tuy nhiên, tình trạng thiếu kẽm vẫn còn, nhất là ở nhóm đối tượng có nguy cơ cao (trẻ em, bà mẹ...). Cụ thể, tỷ lệ thiếu kẽm ở trẻ em 6-59 tháng tuổi ở miền núi phía Bắc (67,7%) và Tây Nguyên (66,6%) và còn cao hơn trên phụ nữ có thai ở miền núi phía Bắc (81,9%) và Tây Nguyên (63,9%).

Đặc biệt, tỷ lệ thiếu kẽm ở trẻ em 6-59 tháng tuổi ở khu vực thành phố 5 năm qua (2015-2020) vẫn ở mức nặng (49,6%) và hầu như không cải thiện.

Tỷ lệ thiếu vitamin A đã giảm nhẹ ở nhóm 6-59 tháng tuổi, tuy nhiên, tỷ lệ này vẫn cao nhất ở khu vực miền núi phía Bắc (13,8%) và Tây Nguyên (11,0%). Chương trình can thiệp uống viên nang vitamin A liều cao đã được triển khai nhiều thập kỷ qua nhưng tỷ lệ thiếu vitamin A tiền lâm sàng ở trẻ em 6-59 tháng tuổi vẫn còn ở mức nhẹ và giảm chậm trong những năm gần đây. Điều này cho thấy cần có can thiệp hỗ trợ mang tính trung hạn và dài hạn để duy trì thành tích đã đạt được và giải quyết tình trạng thiếu vitamin A tiền lâm sàng.

Tỷ lệ thiếu máu ở nhóm trẻ 6-59 tháng trên cả nước giảm ở mức 19,6%, tỷ lệ này vẫn cao nhất ở miền núi phía Bắc (23,4%) và Tây Nguyên (26,3%). Tỷ lệ thiếu máu ở trẻ em 5-9 tuổi (9,2%), ở trẻ em 10-14 tuổi (8,4%).

Báo cáo cho hay, tỷ lệ trẻ sơ sinh bú sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu có sự cải thiện đáng kể, tăng từ 19,6% (năm 2010) lên 45,4% (năm 2020). Trong đó ở khu vực thành thị tỷ lệ này là 55,7%, nông thôn là 40,3% và nông thôn miền núi là 42,7%.

Liên quan tới vấn đề an toàn thực phẩm, tỷ lệ người dân có hiểu biết và thực hành đúng về an toàn thực phẩm có cải thiện rõ rệt. 35,8% số người trả lời có kiến thức tốt; 55,6% có kiến thức trung bình và chỉ 8,6% có kiến thức kém. Về xử lý ngộ độc thực phẩm, 78% số người trả lời lựa chọn đưa người bệnh đến cơ sở y tế để điều trị (năm 2010, tỷ lệ này là 44,9%). Tỷ lệ người dân được tiếp cận với nguồn thông tin chính thống về ATTP cũng tăng gấp hai lần so với cuộc điều tra năm 2010...

Huyền Anh

 

news_is_not_ads=
TIN MỚI