Xanh phải là màu của thực chất

05/05/2025 - 06:24

PNO - Xanh đang trở thành xu hướng tất yếu của ngành du lịch trong bối cảnh toàn cầu đối mặt với biến đổi khí hậu và suy thoái môi trường.

Ở nước ta, từ khóa “du lịch xanh” xuất hiện ngày càng dày trong các chiến dịch truyền thông và đề án phát triển. Trên lý thuyết, đó là tín hiệu tích cực nhưng trên thực tế, màu xanh được “tô vẽ” ở khắp nơi và không phải lúc nào cũng là thật.

Nước ta có đầy đủ lợi thế để phát triển du lịch bền vững, như thiên nhiên đa dạng, văn hóa bản địa phong phú, cộng đồng dân cư giàu kinh nghiệm, sống hài hòa với tự nhiên. Một số mô hình du lịch sinh thái, nông nghiệp, cộng đồng những năm gần đây đã cho thấy hiệu quả khi được làm đúng cách, như xây dựng mà không chặt phá cây xanh, xử lý rác thải theo quy trình khép kín, bảo tồn hệ sinh thái tự nhiên thay vì khai thác đến cạn kiệt.

Du khách quốc tế khám phá tỉnh Ninh Bình bằng xe đạp - ẢNH: U.N.
Du khách quốc tế khám phá tỉnh Ninh Bình bằng xe đạp - ẢNH: U.N.

Tuy nhiên, không ít điểm đến được gắn mác “xanh” nhưng rác thải nhựa khắp nơi, công trình bê tông mọc lên vô tội vạ giữa không gian xanh mướt. Có nơi quảng bá “du lịch sinh thái” nhưng thực chất là nơi được xây dựng theo kiểu cưỡng bức thiên nhiên, tổ chức tiệc tùng ồn ào.

Sự “xanh” ấy chỉ như một lớp sơn dễ tróc. Không thể phủ nhận “xanh” là nhãn mác dễ tạo thiện cảm trong thị trường cạnh tranh. Nhưng nếu “xanh” một cách không thực chất thì trước sau gì cũng đem lại sự thất vọng cho du khách, gây tổn hại lâu dài đến môi trường và cộng đồng.

Bhutan là một minh chứng tiêu biểu của du lịch xanh đúng nghĩa. Quốc gia này hạn chế lượng khách và thu phí môi trường bắt buộc, giúp bảo tồn hệ sinh thái và đóng góp đáng kể vào GDP. Không quảng bá rầm rộ, không đón khách ồ ạt, Bhutan là điểm đến đáng mơ ước nhờ sự nguyên sơ và cam kết phát triển bền vững.

Nhật Bản đưa du lịch xanh về vùng nông thôn, trong đó người dân bản địa sử dụng năng lượng tái tạo, phân loại rác thải, bảo tồn thiên nhiên và nếp sống bản địa; chính phủ vừa hỗ trợ tài chính, vừa đồng hành kỹ thuật, đưa ra tiêu chí rõ ràng. New Zealand thiết lập hệ thống tiêu chuẩn quốc gia cho du lịch bền vững; doanh nghiệp buộc phải tuân thủ quy định bảo vệ môi trường, chính phủ đầu tư vào hạ tầng công nghệ xanh, khuyến khích các hoạt động du lịch không phát thải khí nhà kính.

Những cách làm trên cho thấy, nếu thực sự nghiêm túc với du lịch xanh, cần có định nghĩa thống nhất và hệ thống tiêu chí rõ ràng, có phân loại và giám sát hiệu quả. Không thể để mỗi doanh nghiệp hay địa phương tự gắn mác “xanh” theo cách riêng. Chính sách cần song hành cùng sự hỗ trợ thiết thực như ưu đãi tài chính, tạo điều kiện thuận lợi trong cấp phép cho các mô hình du lịch bền vững, đào tạo nguồn nhân lực để mọi người làm du lịch thay đổi tư duy từ khai thác sang gìn giữ.

Là quốc gia thành viên của Liên hiệp quốc, Việt Nam đã cam kết thực hiện 17 mục tiêu phát triển bền vững (SDG), trong đó có nội dung bảo vệ môi trường và phát triển du lịch bền vững. Tại hội nghị thượng đỉnh lần thứ 26 của Liên hiệp quốc về biến đổi khí hậu (COP26) năm 2021, Chính phủ Việt Nam tuyên bố sẽ đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Điều này đặt ra yêu cầu phải chuyển đổi xanh trong mọi lĩnh vực, trong đó có du lịch.

Du lịch xanh không thể là một phong trào ngắn hạn hay một xu hướng nhất thời mà phải là sự cam kết dài hạn, một lựa chọn có trách nhiệm. Chỉ khi đó, màu xanh mới trở thành bản chất sống động chứ không còn là lớp sơn dễ bong tróc trên những bức tường tiếp thị.

Uông Ngọc

 

news_is_not_ads=
TIN MỚI