Trở về khi muối 200 đồng/kg
Buổi sớm ở phường Sa Huỳnh, tỉnh Quảng Ngãi, gió biển ràn rạt trên cánh đồng muối mênh mông. Trong ánh sáng lấp lánh, Phạm Hồng Thắm cúi xuống nhặt một hạt muối vừa kết tinh, giơ lên giới thiệu với đoàn khách du lịch: “Đợt này không thuận gió nên hạt muối chưa đạt được độ trắng nhất. Nhìn vậy thôi, chứ hạt muối này đã đi qua bao công đoạn của nắng, gió, lớp đất sét và bàn tay người làm muối”. Diêm dân kỳ cựu Ngô Điệp ngừng tay, đùa câu thương mến: “Cô Thắm hiểu hạt muối hơn cả diêm dân Sa Huỳnh rồi”. Không phải lần đầu được nghe, nhưng với Thắm, đó là sự ghi nhận quý giá hơn bất kỳ tấm giấy khen hay giải thưởng nào.
 |
| Chị Phạm Hồng Thắm (thứ ba từ trái qua) cùng chị em Hội LHPN phường Sa Huỳnh tại điểm thu gom pin cũ - Ảnh: Mạnh Trinh |
10 năm trước, cô cử nhân Trường đại học Kinh tế - Luật thuộc Đại học Quốc gia TPHCM chưa từng nghĩ đời mình sẽ gắn với hạt muối nhọc nhằn. Cũng vì những vất vả ám ảnh suốt cả tuổi thơ mà như bao người Sa Huỳnh khác, hướng đi của Thắm là thành phố. Rồi giá muối rớt thảm hại, chỉ 200 đồng/kg, 1 tạ muối không đổi được tô phở, đã khiến cô trở về. Nhiều người hỏi cô, sao lại chọn một nơi xa lắc, khó khăn để khởi nghiệp? Thắm trả lời: “Sa Huỳnh là quê nhà, đâu có xa xôi. Quê nhà ở đâu, mình khởi nghiệp ở đó”.
Ngày đầu trở lại đồng muối, cô như thấy lòng mình thắt lại. Dưới cái nắng 40 độ C, diêm dân đang oằn mình, đổ mồ hôi để đổi lấy vài trăm đồng cho mỗi ký muối, cô nhìn thấy những tấm lưng cháy sém, những bàn chân nứt nẻ hằn sâu, những đôi tay chai sạn và nghe câu thở dài mặn chát: “Bán muối cả ngày không đủ tiền ăn sáng”. Sự quặn thắt đó như một dấu chấm hỏi: “Muối quê mình ngon như vậy, sao lại rẻ đến đau lòng? Nếu không thay đổi từ ruộng muối, người dân sẽ mãi bị ép giá”.
Là người con của Sa Huỳnh, Thắm gõ cửa từng nhà, xuống từng ruộng muối ngồi hàng giờ để học từ diêm dân cách phân tầng nước, nhận biết độ mặn… Nhưng khó nhất vẫn là gieo niềm tin để thuyết phục người dân quay lại làm muối nền đất - kỹ thuật truyền thống trăm năm, bị bỏ dở vì năng suất thấp hơn muối trải bạt. “Trên nền đất muối sẽ lẫn cặn, bán ai mua?” - nhiều người phản bác. Thắm chỉ nói: “Cô chú làm đi, con thu mua giá cao”. Lúc đầu chỉ 2 hộ chịu làm vì “thương con bé Thắm”, nhưng rồi những lứa muối đầu tiên đã chứng minh giá trị. Từ 200 đồng/kg bán cho thương lái, cô thu mua cho bà con với giá 1.000 đồng. Dần dần, muối sạch Sa Huỳnh được bán với giá 16.000 đồng/kg, còn hoa muối (Fleur de Sel) - lớp tinh thể muối đầu tiên kết tinh và nổi trên mặt nước - trở thành đặc sản, giá bán lẻ lên tới trên 200.000 đồng/kg và đạt chuẩn OCOP 4 sao.
Trả lại giá trị xứng đáng cho diêm dân
Thắm làm muối như viết một câu chuyện, từ cách đưa nước biển vào ruộng, phải cào đúng ngưỡng nắng gắt, phải làm muối trên nền đất để muối có hậu ngọt... Khi muối mất mùa, Công ty Sahu của cô chấp nhận bù lỗ, có lúc trả đến 200.000 đồng/bao 50kg để bà con không bỏ nghề. Câu chuyện về Sahu lan ra. Những hũ muối hầm trong nồi đất, muối tre nướng hơn chục giờ... đều mang hình ảnh ruộng muối và sự chịu thương chịu khó của người Sa Huỳnh. Thắm cười: “Làm muối phải có cái lưng chịu trận. Ai muốn bỏ nghề đều dễ, còn trụ được thì phải thương nghề lắm lắm”. Ông Ngô Điệp bảo: “Chúng tôi làm muối mấy chục năm mà không ai đứng ra nói tiếng nói cho nghề. Giờ có “đứa nhỏ” thay mình làm, biết ơn lắm”. Và đó cũng chính là lý do để Thắm ở lại với đồng muối Sa Huỳnh.
 |
| Phạm Hồng Thắm (đứng) nói chuyện về hạt muối và nghề muối với sinh viên Trường đại học Sư phạm Đà Nẵng - Ảnh: Mạnh Trinh |
Tuy nhiên, hành trình không trải đầy hoa mà ngập trong mồ hôi và nước mắt. Thắm vẫn nhớ những ngày đầu vận hành Công ty Sahu, cô phải đối mặt với nỗi sợ hãi tài chính và sự cô đơn. Có lần, giữa trưa nắng gắt, một cơn mưa bất chợt kéo đến cuốn trôi cả mấy chục bao muối sắp thu hoạch, khiến Thắm đứng lặng giữa ruộng, nước mưa hòa nước mắt.
“Lúc đó mình nghĩ, bỏ đi là dễ nhất. Mình là cử nhân luật, ra thành phố vẫn có thể có một công việc ổn định” - cô nhớ. Nhưng nhìn diêm dân lặng lẽ gom từng hạt muối, cô biết mình không thể quay lưng. Cô trở về, không phải kiếm thật nhiều tiền, mà là định giá lại niềm tự hào cho người làm muối. Bằng cách chế biến sâu và kể chuyện sản phẩm, Thắm đã chứng minh được sự khác biệt. Muối hầm nồi đất không chỉ là gia vị mà là phương thuốc cổ truyền. Muối tre nướng phải qua 10-12 giờ nung củi, tinh khiết đến mức trở thành sản phẩm chăm sóc sức khỏe.
Việc nâng tầm này đã phá vỡ thế độc quyền của thương lái, trả lại giá trị xứng đáng cho diêm dân - điều mà ở Sa Huỳnh, trước đó chưa từng có. Đó cũng là một trong những tiền đề để năm 2024, nghề làm muối Sa Huỳnh được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Đi đến cùng để giữ di sản của cha ông
Khi hạt muối Sa Huỳnh bắt đầu tìm lại được danh tiếng và giá trị, Thắm lại đối diện với một hiện thực khác: bê tông hóa, đa dạng sinh học suy kiệt, đồng muối đang thu hẹp. 2 đồng muối đầu tiên mà Sahu thu mua đã bị san lấp để làm dự án. Rác thải sinh hoạt đổ xuống đầm biến nguồn nước biển tinh khiết thành mối đe dọa. Thắm trăn trở: “Làm muối sạch không thể bắt đầu từ nguồn nước bẩn”. Chị cũng nhận ra: “Bảo tồn nghề muối không còn là bảo vệ sinh kế, mà là bảo vệ một di sản sinh thái, một giải pháp khí hậu miễn phí mà thiên nhiên ban tặng”.
Tháng 4/2023, Thắm cùng Hội Nông dân Sa Huỳnh dấn thân vào dự án cộng đồng được Chương trình Tài trợ nhỏ của Quỹ Môi trường toàn cầu (GEF-SGP) do Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc (UNDP) quản lý hỗ trợ. Hướng đi là du lịch học tập cộng đồng nơi du khách đến để học cách sống xanh, để thấm thía giá trị của hệ sinh thái, còn cộng đồng thì chủ động hồi phục môi trường và gìn giữ văn hóa. “Càng nhiều người hưởng lợi, càng thêm nhiều lý do để bảo vệ đồng muối” - Thắm giải thích.
Trong các tour học tập, du khách được chị hướng dẫn nhận diện các tầng sinh thái của đồng muối. Họ bất ngờ khi biết đồng muối Sa Huỳnh không chỉ là nơi kết tinh hạt muối, mà còn là một hệ sinh thái phức hợp được xây dựng trên lớp đất sét trầm tích. Chính hệ thống kênh, hồ chứa và sự phân tầng độ mặn tự nhiên đã biến đồng muối thành một “vườn ươm tự nhiên” khổng lồ. Quan trọng hơn, lớp đất sét còn có khả năng tích trữ các bon hiệu quả và là lá chắn thiên nhiên giúp chống lũ lụt, điều tiết khí hậu.
Buổi chiều, Thắm dẫn khách đi dọc mép đầm nước mặn, nơi người dân đã dọn sạch rác để trồng cây đước - loài cây giúp lọc kim loại nặng, giữ bờ và tạo môi trường sống cho sinh vật nước lợ. Cộng đồng đã trồng 1.000 cây và dù chỉ một phần sống sót, chị vẫn lạc quan: “Có một cây là có rừng. Mọi thứ đều bắt đầu từ hạt giống đầu tiên”. Song song đó là những buổi tập huấn phân loại rác, dựng thư viện nhỏ cho trẻ em. Ban đầu chỉ vài người tham gia, nhưng dần dần bà con rủ nhau đến đông hơn. Hôm thư viện đi vào hoạt động, đám trẻ xóm muối ùa đến, ôm sách ngồi bệt ngay cửa. Thắm cười, ánh mắt lấp láy: “Nhìn tụi nhỏ, tôi biết mình đã đi đúng”.
Nhìn lại 10 năm tuổi trẻ dựng nghiệp trên đồng muối, Thắm bảo mình chỉ là chủ vựa, là người bình thường đứng ở nơi cần mình nhất. Nghề muối đã chọn chị, để từ đó dẫn dắt chị chọn cách sống gắn bó với thiên nhiên, với cộng đồng. “Nếu đi đúng hướng, những thứ rất đỗi bình thường cũng có thể trở thành giá trị. Muối quê tôi đã làm được. Giờ là lúc hệ sinh thái Sa Huỳnh cần được trân trọng” - Thắm chia sẻ.
Dưới nắng chiều, đồng muối Sa Huỳnh ánh lên sắc trắng tinh khôi. Những hạt muối lấp lánh không chỉ là gia vị mà còn là biểu tượng của hy vọng, là di sản sinh thái đang được gìn giữ. Hành trình phục hồi hệ sinh thái Sa Huỳnh còn gian nan, nhưng giữa đồng muối mênh mông này, Phạm Hồng Thắm - người được quê hương “chọn mặt gửi vàng” - chắc chắn sẽ đi đến cùng để giữ trọn vẹn di sản của cha ông.
Uông Ngọc