Nắng mới ở làng phong

27/08/2025 - 07:44

PNO - Một bên là biển xanh rì rào, một bên là dãy Cù Mông trùng điệp, thung lũng Quy Hòa (phường Quy Nhơn Nam, tỉnh Gia Lai) như thu mình trong dáng vẻ bình yên. Từ trên đèo nhìn xuống, làng phong hiện ra dưới hàng dừa rợp bóng - như một nốt lặng giữa thiên nhiên khắc khoải. Một thời, nơi đây từng là “cõi ngoài” - nơi những phận người mang dấu vết của vi khuẩn Hansen bị ruồng bỏ, sống trong sự cách ly, xa lánh. Giờ đây, làng vẫn đó, nhưng không còn là chốn tận cùng.

Sự sống nảy mầm từ lãng quên

Bệnh viện Da liễu Trung ương Quy Hòa (cơ sở 2 tại phường Quy Nhơn) là nơi người ta vẫn quen gọi bằng cái tên dân dã: làng phong. Phía dãy nhà tập thể sát tường bao của viện, ông Phạm Văn Lem - 70 tuổi, người H’rê, quê Quảng Ngãi - ngồi xe lăn, đôi bàn tay chỉ còn vài đốt. Vợ ông - bà Phan Thị Hà, 67 tuổi, quê ở TP Đà Nẵng - tay cũng co quắp, lúi húi sửa soạn chiếc xe lắc, chuẩn bị ra phòng cầu nguyện ở Khoa Dưỡng lão.

“Tôi bị phong từ nhỏ. Ở vùng núi sâu heo hút, không thuốc men, không ai biết bệnh phong là gì. Lúc phát nặng, dân làng sợ, đuổi tôi đi. Năm 1980, tôi được một đoàn bác sĩ phát hiện và đưa về đây, bấy giờ là Bệnh viện Phong Quy Hòa” - ông Lem kể.

Vợ chồng ông Phạm Văn Lem, bà Phan Thị Hà
Vợ chồng ông Phạm Văn Lem, bà Phan Thị Hà

10 năm điều trị, ông Lem thoát được bệnh nhưng không cứu được đôi bàn tay, bàn chân. Ông cười: “Tôi còn sống là mừng rồi. Hồi ấy không được đưa xuống đây chắc tôi chết trong rừng”. Bà Hà cũng mắc bệnh năm 14 tuổi, nhưng gia đình không biết, chỉ cho uống thuốc nam. Không khỏi, họ bỏ mặc. Bệnh trở nặng, người nhà đưa bà ra bệnh viện ở Đà Nẵng mổ rồi lại về làm ruộng. Bệnh tái phát, bà vào Quy Hòa để được chữa dứt điểm.

Ông Lem nhớ: “Những ngày bà Hà điều trị, tôi thường lên khu an dưỡng chơi, thấy lủi thủi một mình, tôi mang bánh tráng lên rủ ăn. Dần dần thành quen”. Rồi họ quyết định chung sống. Khi mẹ bà Hà vào thăm, ông Lem vì tự ti mà trốn biệt. Bà Hà lặn lội tìm đưa ông về. Nhìn chàng rể không còn chân tay, mẹ bà chỉ nói: “Các con đều bệnh, thương nhau thì sống với nhau trọn đời”. Câu nói ấy làm ông Lem bật khóc. 3 năm sau, hạnh phúc vỡ òa khi bà Hà sinh con trai khỏe mạnh, lành lặn.

Để có tiền nuôi con ăn học, ông bà chắt bóp tiền từ thiện để gầy đàn gà, mở quán tạp hóa nhỏ trong làng. Năm tháng trôi, cậu con trai đã tốt nghiệp ngành điều dưỡng của Trường đại học Đông Á và về làm việc tại Bệnh viện Da liễu Trung ương Quy Hòa như rất nhiều con em của làng phong, chọn ngành y, để chăm sóc, giúp đỡ những người đồng cảnh ngộ.

Bây giờ sức đã yếu, ông Lem phải ngồi xe lăn. Hồi bệnh viện xây dãy nhà tập thể mới, gia đình bà Hà xin dọn lên đây, vì ngôi nhà cấp 4 đã cũ nát, lại bị ngập. Nhìn căn nhà khang trang, tường sơn trắng muốt, ông bà mỉm cười: “Được vậy là mãn nguyện rồi”.

Bà Hà lòng còng bước lên xe lắc. Bà dặn ông Lem ở nhà cẩn thận, bà đi chốc lát là về. Nụ cười hiền hòa, nghiêng nghiêng dưới vành nón lá.

Những đứa trẻ lớn lên trong yêu thương

Mặt trời xuống dần sau dãy núi Cù Mông. Chị Ksor H’veo (quê Gia Lai) dựng xe máy, thập thững bước lên bậc thềm. Chị vừa đi tưới cây trong khuôn viên bệnh viện. Nhận được việc tưới tắm, chăm sóc cây 2 lần mỗi ngày với mức lương tháng vỏn vẹn 1,8 triệu đồng, nhưng chị hạnh phúc. “Tay chân mình vầy, rửa bát còn không xong… Có việc làm là mừng rồi” - chị cười.

Chị H’veo sinh ra trong cái nhìn sợ hãi của cả buôn làng vì có cha bị phong. Sau khi cha treo cổ tự tử, H’veo bị mẹ bỏ lại trong rừng. Nhưng chị vẫn tìm về làng, sống nép bên chái bếp sau nhà. Một tu sĩ biết chuyện đã đưa chị xuống Quy Hòa cứu chữa. Trước khi lấy anh Đinh Zít, chị H’veo đã yêu một người khác. Gia đình nhà chồng phản đối, họ phải chia tay dù đã có con gái Ksor H’mi. Mẹ con chị được cấp một căn nhà trong khu tập thể, mỗi ngày chị dắt con vào khu bệnh nhân phong chơi cùng mọi người. Và ở đó, chị gặp anh Đinh Zít, cùng quê. Chị H’veo kể, lần ấy chỉ nói đùa là muốn làm vợ anh, chẳng ngờ anh đồng ý thiệt.

Anh chị có 2 con, Ksor Guillơ sắp vào lớp Tám, Ksor Út học mẫu giáo 5 tuổi. Anh chị chọn tên Guillơ để đặt cho đứa con đầu, vì trong tiếng Ba Na, Guillơ là cuộc gặp gỡ, lần gặp đầu và làm nên cuộc đời mới. Khi sinh bé Út, chị sinh non hơn một tháng. Cả hai mẹ con đều nguy kịch, phải chuyển sang bệnh viện đa khoa tỉnh. May mắn, chị và con được cứu sống nhờ sự góp sức của cả cộng đồng Quy Hòa…

4 mẹ con chị H’veo
4 mẹ con chị H’veo

H’mi đang học năm thứ ba Trường đại học Quy Nhơn. H’mi lễ phép, nói năng nhẹ nhàng. Cháu bảo, sau này đi làm, cháu sẽ nuôi Guillơ và Út ăn học. Chị H’veo bảo, ở đây, mọi người đồng cảnh nên thương yêu, đùm bọc nhau như người nhà. Út 5 tuổi, nhưng có đến hơn 4 năm được bà hàng xóm Phan Thị Phước nuôi cơm và trông nom. Gần đây, chồng bà Phước bị ung thư nên chị H’veo để Út về nhà ăn cơm.

Lương thực, thực phẩm, mắm muối được các nhà hảo tâm hỗ trợ cho làng khá nhiều, nên các hộ gia đình ở làng phong cũng vơi đi vất vả. Anh Đinh Zít được chủ một doanh nghiệp nhỏ ngoài khu dân cư mới (nơi sinh sống của con em làng phong sau khi xây dựng gia đình) nhận làm bảo vệ. Lương tháng 5 triệu đồng - số tiền mơ ước và vô cùng giá trị đối với gia đình bệnh nhân phong. Chân anh Zít vốn chẳng lành, đi đứng nhiều là đau. Nhưng vì 3 đứa con tuổi ăn học, anh vẫn cố gắng vì tương lai của chúng.

Người làng phong được cả cộng đồng đùm bọc. Người bệnh được điều trị miễn phí, được cấp nhà tập thể, mỗi tháng được hỗ trợ 1,4 triệu đồng/người. Con cái được xe đưa rước vào phố thị Quy Nhơn học tập. Những sinh viên như H’mi còn được Hội Người Việt Nam tại Pháp giúp “vốn” ăn học. Có lẽ vì đồng cảm, vì trân trọng, biết ơn mà rất nhiều con em của làng phong theo học ngành y, làm bác sĩ, y tá, điều dưỡng ở Bệnh viện Da liễu Trung ương Quy Hòa.

Một đời sống khác đang nảy nở

Nắng đầu thu rót vàng qua tán lá, trải xuống khắp làng. Trong Khoa Dưỡng lão, nhóm các ông chơi mạt chược. Ngoài khu tượng Quan âm, nhóm tụm lại bên bàn cờ tướng, nhóm ngả nón ngồi hóng gió, trò chuyện rôm rả. Những chiếc xe lắc, xe đạp qua lại như hòa vào nhịp sống thường nhật của làng. Phía trên, nhóm vệ sinh đang í ới gọi nhau đi quét dọn khuôn viên bệnh viện. Ngoài cổng, xe máy chở vợ chồng, con cái tấp nập vào ra, người mang áo phao, người mang theo đồ tắm biển. Trên bãi biển, xe khách chờ đón nhóm chơi team building. Rừng dương đầy ắp tiếng cười. Một đời sống khác đang nảy nở từ chính nơi từng là “cõi ngoài” sự sống.

Biết tôi đã từng đến đây từ gần 20 năm trước, các ông, các bà hỏi: “Thấy đời sống hiện tại ở đây có khác trước nhiều không? Tôi đáp: “Bây giờ mọi người nói chuyện với tôi cởi mở hơn trước rất nhiều”.

Nhìn 3 đứa con da nâu, mắt sâu, lấp lánh như sao, ngơ ngác như cây rừng của H’veo, tôi nhờ và hướng dẫn chị chụp giúp một tấm hình làm kỷ niệm. 2 bàn tay, tất cả các ngón chỉ còn lại 1-2 đốt của chị lóng ngóng cầm điện thoại. Hàng xóm lo lắng: “Có chụp được không?”. Trán H’veo rịn mồ hôi, chị cười: “Khó, nhưng ráng”. Tấm hình H’veo chụp bị nghiêng, lệch, nếu chỉnh cho ngay ngắn thì sẽ mất chỏm đầu. Nhưng với tôi, đó là tấm hình đặc biệt nhất trong hành trình làm nghề của mình.

Chị H’veo nhờ tôi chuyển hình cho H’mi để Mi gửi về quê cho bà ngoại. Chị cười ấm áp: “Giờ về quê người ta khác xưa nhiều rồi. Nhà nước tuyên truyền mạnh, bà con không còn sợ nữa. Xóm giềng đến chơi, hỏi thăm - điều mà trước đây, ngay cả trong mơ mình cũng không dám nghĩ tới”.

Uông Ngọc

 

news_is_not_ads=
TIN MỚI