Được sinh con an toàn không phải là đặc ân

31/07/2025 - 06:40

PNO - Việt Nam được cộng đồng quốc tế ghi nhận là một trong những quốc gia đạt nhiều thành tựu trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em. Trong 30 năm qua, tỉ lệ sản phụ tử vong giảm trên 5 lần, tỉ suất tử vong trẻ em dưới 1 tuổi giảm hơn 4 lần và tỉ suất tử vong trẻ dưới 5 tuổi giảm gần 4 lần.

Thế nhưng, trong bức tranh sáng sủa đó, vẫn còn những khoảng tối. Vẫn còn phổ biến tình trạng sinh con tại nhà ở vùng cao, vùng dân tộc thiểu số, khiến nguy cơ tai biến sản khoa rình rập. Theo Quỹ Dân số của Liên hiệp quốc (UNFPA), tỉ lệ tử vong mẹ ở các khu vực miền núi và dân tộc thiểu số của Việt Nam vẫn ở mức từ 100-150/100.000 ca sinh. Tỉ lệ này cao gấp 2-3 lần so với mức trung bình 46/100.000 ca của cả nước.

Nhiều phụ nữ ở xã Môn Sơn, tỉnh Nghệ An đến trạm y tế khám thai, sinh đẻ - Ảnh: Phan Ngọc
Nhiều phụ nữ ở xã Môn Sơn, tỉnh Nghệ An đến trạm y tế khám thai, sinh đẻ - Ảnh: Phan Ngọc


Tập tục lâu đời, sự thiếu hụt nhân lực chuyên môn và điều kiện đi lại khó khăn khiến việc tiếp cận dịch vụ y tế an toàn trở thành điều xa vời đối với nhiều thai phụ miền núi, dân tộc thiểu số. Nhiều phụ nữ không đi khám thai, không quản lý thai kỳ, thậm chí không biết mình có dấu hiệu chuyển dạ nguy hiểm. Không ít người coi sinh đẻ là “việc của trời”, là chuyện gia đình, không nên nhờ cậy người ngoài. Một số trường hợp ngại chi phí phát sinh khi đưa sản phụ đến cơ sở y tế, hoặc do đường quá xa, không thể vượt qua dốc đá, suối sâu giữa đêm. Kết quả, có nhiều ca sinh diễn ra trong điều kiện không an toàn.

Trong những năm gần đây, nhiều chương trình hỗ trợ phụ nữ sinh con an toàn đã được triển khai, trong đó có dự án “Thực hiện bình đẳng giới và giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em” (dự án 8) do Hội LHPN Việt Nam phối hợp triển khai, thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế, xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Sau 5 năm thực hiện giai đoạn 1 của dự án (2021-2025), đã có hơn 7.000 bà mẹ ở 10 tỉnh được thụ hưởng 4 gói hỗ trợ phụ nữ dân tộc thiểu số sinh đẻ an toàn. Họ được khám thai tại cơ sở y tế đủ 4 lần trong suốt thai kỳ, nhận gói vật tư chăm sóc khi sinh trong trường hợp sinh từ 2 bé trở lên/lần sinh.

Một số mô hình kết hợp giữa y tế cơ sở và các tổ chức quốc tế cũng bước đầu giúp phụ nữ ở vùng sâu, vùng xa sinh con an toàn hơn. Tuy nhiên, đây vẫn chỉ là những điểm sáng đơn lẻ, cần được nhân rộng hơn.

Để xóa bỏ tận gốc tình trạng sinh con tại nhà, cần thay đổi nếp nghĩ, cách làm của phụ nữ và của lãnh đạo các ngành, các cấp. Phụ nữ vùng cao phải được đặt vào trung tâm trong mọi thiết kế chính sách. Họ cần được tiếp cận dịch vụ y tế thân thiện, dễ hiểu, gần gũi cả về ngôn ngữ lẫn văn hóa. Các cơ sở y tế cần có cán bộ người địa phương, nói tiếng bản địa, am hiểu phong tục để tư vấn, vận động hiệu quả. Hạ tầng giao thông cần được cải thiện để việc đến trạm y tế không còn là hành trình mạo hiểm.

Đội ngũ y tế thôn bản, cô đỡ cộng đồng cần được đào tạo bài bản và hỗ trợ tài chính để gắn bó lâu dài. Đồng thời, các chương trình truyền thông thay đổi hành vi cần được tổ chức thường xuyên với sự tham gia của già làng, trưởng bản - những người có tiếng nói trong cộng đồng.

Không thể nói đến phát triển bền vững khi hàng ngàn phụ nữ vẫn sinh nở trong sự thiếu thốn và định kiến. Không thể để những đứa trẻ sơ sinh đối diện rủi ro chỉ vì mẹ mình sống trên núi cao, cách xa trạm y tế. Được sinh con an toàn không phải là đặc ân mà là quyền cơ bản của con người, cần được thực thi bằng hành động thiết thực.

Như Diệp

 

news_is_not_ads=
TIN MỚI