Đọc qua những cuốn sách cho thấy dường như chị đã học được từ mẹ mình rất nhiều, phải chăng vì vậy mà những ký ức về căn bếp phố cổ luôn hiện diện?
Bố tôi lớn lên ở phố Cửa Đông, mẹ tôi ở phố Hàng Đồng, 2 ông bà lấy nhau về ở tại Nguyễn Hữu Huân từ năm 1958. Nhà tôi gần các chợ lớn của Hà Nội như: Chợ Đồng Xuân Bắc Qua, chợ Hàng Bè, chợ Thanh Hà, chợ Trung Yên… thế nên tầm 7, 8 tuổi, chị em tôi thường được theo mẹ đi chợ, được học cả một bầu trời kiến thức. Mẹ chỉ cho chị em tôi cách mua rau phải chọn rau tươi như nào, chọn thịt, chọn cá ra làm sao. Mua gì thì phải tới đúng hàng đó. Mẹ bảo phải chịu khó không lúc về nhà chồng còn biết đường mà làm ăn. Không thì điếc óc, xấu hổ với bố mẹ. Bà có mẹo đi chợ đơn giản mà hữu hiệu đó là đứa nào đi chợ thì được mẹ mua cho tí quà. Hôm thì 1 hào bánh đa kê, hôm thì 5 xu bánh rán, hôm nào sang thì được mẹ cho bát bún, quả trứng vịt lộn… Mẹ cứ đi chợ về là chúng tôi hóng quà.
Giờ đây chúng tôi lên chức bà và mẹ đã đi xa, nhưng lúc nào đi qua chợ là ký ức về mẹ lại dội về những ký ức muôn đỗi thân thương. Lúc nào cũng như thấy mẹ đang lúi húi góc bếp. Dường như mẹ tôi khẽ khàng trở dậy, búi vội mớ tóc, đội nón, cắp rổ, mở cổng sau đi buổi chợ chiều. Tiếng guốc mộc lách cách vang xa, vang xa, rồi nhỏ dần, nhỏ dần, trên lối ngõ…
Câu chuyện “Chỉ là chuyện rau muống đấy thôi”, chỉ cần đọc bài đó là các bà mẹ có thể học theo để dạy con từ chuyện nhỏ nhất là nhặt rau phải không chị?
Đúng vậy, có lần tôi đọc được một bài viết về cô gái được bạn trai đưa về giới thiệu cùng gia đình, mẹ chồng từ chối thẳng vì khi vào bếp làm cơm cùng mẹ chồng, thay vì nhặt rau muống từng cọng, cô lại lấy dao cắt cả mớ rau muống rồi xổ ra cho vào chậu rửa luôn. Đúng là chuyện cười ra nước mắt. Tôi lại nhớ tới mẹ khi bà dạy tôi cách nhặt rau phải nhặt từng cọng để rau khỏi giập, mua rau phải chọn rau xơ mới. Rửa rau phải nghiêng cái chậu cho nước tràn ra ngoài, vì rau có bèo và phải rửa như thế mới sạch. Nếu dạy con làm đúng thì từ sau cứ thế sẽ thành thói quen.
Trong sách, chị tả mẹ và dì khi làm mắm tép với những hình ảnh chân thật, gần gũi, đến chị liệu các con cháu mình có còn thích các món đó không?
Thời thế thay đổi, con người cũng phải thay đổi. Tuy nhiên, có một thứ bất biến, đó là những gì mẹ dạy tôi không bao giờ tôi quên và tôi cứ làm theo, đã ngấm trong tôi. Đúng là tôi và đồng nghiệp đài Hà Nội đã có dịp được quay mẹ tôi khi thực hiện món mắp tép. Giờ xem lại những thước phim quý giá ấy, ngắm đôi tay mẹ một đời làm lụng vất vả, đen đúa, gân guốc, sao mà thương thế. Nhớ dáng mẹ tôi xưa, áo cánh nâu, khăn vấn, miệng ăn trầu bỏm bẻm, lưng cúi gập trên rá tép riu đang nhảy lao xao trên mặt chậu thau đồng nước trong vắt. Thính mẹ tự rang, lọ mẹ tự rửa, phơi khô sạch sẽ. Tép tự tay mẹ giã, sợ các con làm bắn ra ngoài cối thì phí của. Duy nhất, bà chỉ bảo các con ra xin bố chén rượu trắng và giã thêm khúc riềng già vắt nước, cho vào lọ mắm lấy mùi thơm. Việc phơi mắm, trở mắm trên gác thượng đều do dì Hai tôi săn sóc. Mắm tép được nắng, trở màu đỏ rực, thơm phức.
Những miếng thịt ba chỉ luộc chín tới thái mỏng hồng nhạt. Đĩa gừng thái chỉ vàng ươm, rau mùi thơm xanh ngắt, ớt đỏ chói lói. Đĩa bún trắng ngần. Khế chua, chuối chát đan xen xanh trắng. Bát mắm rực màu hoa hiên. Tất cả cứ vơi dần mà chưa ai thấy gọi sang nem rán, bún riêu, vốn vẫn là mấy món tủ của nhà tôi… Hương vị ngọt ngào, thân thương của niềm hạnh phúc gia đình là điều mà xưa nay không gì thay đổi được.
Có những tập tục thói quen phản ánh những cách thức sống của người Hà Nội xưa, như sự thanh lịch, tinh tế… nhưng ngày nay có người lại cho đó là sự khắt khe và kỹ tính?
Theo tôi, sự thanh lịch văn minh không phải là đặc sản của người Hà Nội, mà là đặc sản của gia đình, của truyền thống, nền nếp gia đình ở đâu cũng vậy chứ không phải riêng người Hà Nội. Chồng tôi là người Thái Bình đến Hà Nội nhưng tôi thấy anh ấy còn thanh lịch hơn chúng tôi nhiều. Tôi làm nhà báo phải luôn nhanh, đôi khi tùy tiện, vừa nấu cơm, dọn bát, cho bất cứ thứ gì vào mồm khi ở riêng 1 mình.
“Vì chàng thiếp phải bưng mâm, những khi mình thiếp bốc thầm cũng xong” - tôi nghĩ câu ca dao nói lên sự hy sinh của người phụ nữ, nhưng cũng là thói quen giản tiện không quá lễ nghi, phép tắc. Giờ tôi vẫn thế, đôi khi vội vàng chỉ một bát cho các thức ăn vào, vừa ăn vừa làm là xong. Đôi khi ăn dở bát cơm đứng dậy, uống dở cốc nước đứng dậy…
Nhiều nhà nghiên cứu và phê bình văn hóa cho rằng các tập sách của chị mang tính khảo cứu tập tục và sinh hoạt của người Việt qua ẩm thực, chị nghĩ sao?
Tôi chỉ viết những gì tôi đã trải qua, nghiên cứu và sưu tầm, thực địa. Trong công việc tôi có điều kiện để tìm hiểu những nét tinh hoa văn hóa vùng miền và đặc biệt là văn hóa dân gian, ẩm thực truyền thống. Tôi may mắn gặp các nghệ nhân và khi có sự thay đổi biến động, tôi rất quý và trân trọng những người còn giữ hồn cốt văn hóa dân tộc, tôi tiếc nuối nếu họ bị quên lãng trong thời đại số này. Thế nên làm gì để ghi chép, diễn đạt, hoặc lưu giữ truyền thống, tôi đều cố gắng. Còn các cuốn sách như “Hà Thành hương xưa vị cũ”, hay “Đặc sản bốn phương hội tụ”, “Hà Nội mến thương” đều là viết về những chuyện thực mà tôi đã trải nghiệm. Tôi không sáng tác, tôi chỉ kể lại câu chuyện chân thực đời sống của mình và mọi người. Tôi còn nhớ rất nhiều lần một mình lủi thủi bắt xe buýt đi tìm hiểu đời sống của những người trong các ngôi làng ở miền Bắc… Tôi làm những việc đó là vì đam mê và yêu quý trân trọng, muốn gìn giữ những gì có thể bị quên lãng.
Nhưng để làm mới mình trong các trang viết cũ, lại thấm mùi hương của vị ngon ẩm thực khi đưa vào sách có khó với chị không?
Ẩm thực Hà thành thường được biết đến trong nhiều trang sách của Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Vũ Bằng, Băng Sơn… Trước đây tôi chưa từng nghĩ mình sẽ ra một cuốn sách. Tất cả là bài vở trong 40 năm tôi làm báo, hoặc là lời bình phim, chuyên đề, nhưng khi được thầy cô, bạn bè, đồng nghiệp khích lệ, tôi có thêm động lực để tập hợp và biên tập thành các tập sách. Tôi hy vọng cuốn sách sẽ đem đến cho bạn đọc một chút về giá trị tư liệu và cảm xúc trong chuyện cái ăn cái uống một thời Hà Nội, giai đoạn nửa cuối thế kỷ 20 - đầu thế kỷ 21.
Nếu tóm gọn lại, chị có thể đưa ra nhận xét gì về tinh hoa của ẩm thực Hà Nội?
Hà Nội là nơi bốn phương hội tụ nên tiếp nhận nhiều tinh túy từ các vùng miền, trong đó có nghệ thuật ẩm thực Hà Nội đa dạng nhưng tinh tế, mọi gia vị đều hài hòa, vừa phải. Ví dụ không quá nóng, không quá cay, không quá ngọt, cái gì cũng ở mức vừa phải, có độ dung hòa trong ẩm thực. Một bát nước mắm chấm cũng có nhiều cách pha nhưng tùy từng món mà có gia giảm khác nhau. Nếu chấm rau muống luộc, thì phải có ít tỏi, chanh, ớt đi kèm. Hoặc có thể dầm quả sấu vào bát nước mắm thì đó lại mang một hương vị khác. Chấm các món cuốn, thì bát nước chấm phải pha theo cách khác. Món gỏi, thì pha chế theo cách khác. Đặc biệt, từ nhỏ, tôi đã được học của mẹ cách làm mắm. Những ngày trời se lạnh, hoặc vào mỗi mùa rươi, tôi đều chạy ra chợ, mua ít rươi về làm mắm, hoặc lúc gặp mớ tép ngon, đúng là như trúng số, phải mua ngay về làm.
Trong cuốn “Hà Nội mến thương” có thêm rất nhiều cảnh sắc và con người tinh hoa chốn Kinh kỳ, chị có thể chia sẻ thêm đôi chút với độc giả?
Đó là tập hợp những bài viết về làng nghề, phố nghề, chân dung người Hà Nội và ẩm thực Hà Nội. Tôi muốn lưu nhớ về thú chơi địa lan cổ, hoa cúc cổ, hoa thủy tiên, hay những ngôi làng, phiên chợ cổ xưa của người đồng bằng Bắc Bộ, tìm lại chút gì còn sót… Muốn các làng nghề được hồi sinh và các nghệ nhân có vị trí của mình một cách xứng đáng. Tôi cũng không muốn in thêm gì nữa, vì đây là tất cả những gì chắt lọc từ bao năm qua của tôi. Đó cũng là những gì tôi gửi gắm tình yêu tới mảnh đất Hà thành.
Rất nhiều người ở độ tuổi về hưu bị hụt hẫng, chao đảo, và thậm chí trầm cảm, nhưng hình như chị từ khi về hưu lại phát triển rực rỡ hơn, chị có bí quyết gì?
Từ khi về hưu tức là vơi bớt phần nghĩa vụ và trách nhiệm, thì tôi làm việc một cách tự do như mình mong muốn, làm những thứ mà trước kia vì bận không thể làm được. Tôi đi, nghiên cứu, học, và viết nhiều hơn xưa, tái hiện nhiều món gia truyền mà đôi khi chỉ có trong ký ức. Hiện nay, tôi vẫn làm tư vấn mỗi chiều cho nhà Đài nên tôi có ngơi tay được bao giờ hơn. Tuy nhiên, về tâm thế, là tôi thấy thoải mái hơn. Tôi nghĩ các anh chị em tới tuổi hưu, ta nên tận dụng thời gian để làm điều mình thích, mình yêu, cùng với tập tành thể dục, yoga, đạp xe, đi bộ, nhảy, nấu ăn, cắm hoa, học hát, học múa, học theo lối hiện đại cũng được, mà học kiểu dân tộc cũng vui… Rồi lo con cháu chăm chút cho gia đình hạnh phúc, thế thì thời gian đâu mà lo mà buồn chuyện khác. Tôi rất mong ai cũng tìm được sự “giải thoát” cho mình bằng cách lao động. Chỉ có làm việc, lao động, mới cứu rỗi được con người.
Tôi đọc sách, tôi nghe nhạc, tôi ăn món mình thích, nhưng mà, thực sự chẳng ăn một mình được đâu. Tôi làm cái gì cũng nhiều, rồi chia cho các con các cháu, cho bạn cho bè, cho ai thích thì đều có thể tới để ăn cùng. Tôi tổ chức “quà chiều Hà Nội” để các bạn trẻ hoặc mọi người yêu thích những truyền thống, văn hóa dân gian đều có thể tới đây, ta cùng ăn chén chè, kẹo bột kẹo lạc, hoặc bánh ngỗng, bún thang, búc ốc, bánh đúc, nói chung toàn đồ truyền thống mà giờ giới trẻ ít ăn… Họ vừa được thưởng thức văn hóa văn nghệ, vừa được uống chèn trà thơm, ăn những món xa xưa… Đó là niềm vui của tôi.