Trong bốn đại thụ âm nhạc mà người ta sắp “thấy” trên sân khấu, chỉ còn mỗi cái tên Trần Tiến là đương thế. Người còn kẻ mất, nhưng thật ra các ông đã từng rất gắn bó nhau trong âm nhạc lẫn đời sống…
Hồi đó tôi là ca sĩ của Đoàn Ca nhạc Hà Nội, đoàn bảo tôi đến gặp cụ Văn Cao để xin bản tổng phổ bài Tiến quân ca. Đó cũng là lần đầu tiên tôi được gặp Văn Cao, anh đã nổi tiếng rồi còn lúc đó tôi mới 18 tuổi thôi, nên tôi run lắm. Xin bản nhạc xong, tôi bảo xin phép cho em được hát một bài do em sáng tác được không. Anh bảo hát đi, rồi anh uống rượu, ngồi nghe. Tôi hát Bài ca thanh niên ra tiền tuyến - bài tôi mới đoạt Giải A cuộc thi sáng tác “Tiếng hát át tiếng bom” của Hội Nhạc sĩ Việt Nam. Tôi hát xong, anh chả nói gì cả, chỉ ngồi đó uống rượu rồi hỏi: “Còn gì nữa không?”. Tôi hát tiếp, bài Cô gái Sầm Nưa, nghe xong anh lại hỏi “Còn gì nữa không?”. Tôi lại hát thêm bài Người bạn bình thường. Lại “còn gì nữa không?”. Lần này tôi bảo hết rồi.
Khi ấy, anh bảo tôi bỏ nghề hát đi, viết nhạc đi, vì tôi có chất nhạc thanh niên rất lạ, cháy bỏng. Anh cũng nói tôi là người thứ hai anh đưa ra lời khuyên này, người trước đó là Phạm Duy. Khi gặp Phạm Duy trong chiến khu, anh nói Phạm Duy viết nhạc hay, viết đi, bám vào dân ca mà viết.
Về nhà, tôi suy nghĩ mãi, và viết. Cứ mỗi một lần viết xong, tôi lại tìm đến Văn Cao, và nhận được câu “Hay, hay đó, viết nữa đi”. Ngày vợ chồng tôi cưới, năm 1973, người khách cuối cùng của đám cưới chính là anh Văn Cao với chị Băng (Nghiêm Thúy Băng, vợ nhạc sĩ Văn Cao - PV). Món quà cưới từ anh chị là cuốn sách Kỹ thuật âm nhạc của tôi của Olivier Messiaen - nhạc sĩ nổi tiếng nhất trong trường phái tiên phong của Pháp bấy giờ. Anh nói, đây là những kỹ thuật mới nhất, anh tặng tôi nhưng khuyên tôi nên vào Nhạc viện học đi, rồi hẵng đọc.
Nhạc sĩ Trần Tiến khi còn trẻ
Nhưng sau đó tôi vẫn đi hát ở các tuyến lửa: Quảng Bình, Vĩnh Linh… rồi vào chiến trường Nam Lào. Trong một trận đánh, tôi tưởng mình đã chết, nhưng rồi được đưa về trạm thương binh ở Quảng Bình và tôi sống. Sau trận đó, nhớ tới lời anh Văn Cao, tôi đi học nhạc, diện cán bộ đi học. Trước khi đó, nốt nhạc bẻ đôi tôi cũng không biết. Đầu tiên tôi học thanh nhạc, rồi học tiếp 8 năm trời về giao hưởng…
Với anh Trịnh Công Sơn, thì tôi gặp anh lần đầu tiên là ở nhà nhà thơ Phạm Tiến Duật, sau sự kiện 30/4. Lần đó, tôi ôm đàn hát. Anh Sơn thích lắm, đó là thứ âm nhạc anh chưa nghe bao giờ, của tuổi trẻ Hà Nội. Từ thích đến thân, rồi tôi và anh Sơn thân nhau như ruột thịt. Trong đời mình, có 2 người với tôi là ruột rà, là mẹ tôi và anh Sơn!
Tôi và anh Sơn nói chuyện hợp nhau lắm, vì cùng mê triết học. Anh tặng tôi toàn sách triết học. Ngày trở lại Bắc, thường người ta sẽ mang tủ lạnh này nọ, còn tôi mang 200 cuốn sách mà anh Sơn dẫn tôi đi mua. Đọc xong tôi tặng lại bạn bè hết, cuốn cuối cùng tôi giữ là Thiền luận của Daisetz Teitaro Suzuki
(Nhật Bản). Sau thấy nhà văn Nguyễn Tuân mê quá, tôi tặng luôn.
Còn về Phạm Duy? Ông và cố nhạc sĩ Phạm Duy, Trịnh Công Sơn đã từng dự định một chuyến du ca khắp nơi?
À, còn về Phạm Duy thì, lần ấy nhóm Du ca đồng nội chúng tôi được mời sang Hà Lan biểu diễn, có Phạm Duy đến xem. Phạm Duy mê nhất bài Vết chân tròn trên cát, anh bảo nhạc tôi “đầy nhân văn và triết lý”. Mê nhạc, rồi hợp nhau. Ở đó, cứ sáng 6g Phạm Duy sẽ gọi tôi dậy uống cà phê. Phạm Duy và Trịnh Công Sơn, một ông thì “Tiến, đến uống rượu” ở quê nhà, một ông thì “Tiến, đi uống cà phê” giữa trời Paris. 3 chúng tôi thân nhau, thương nhau lắm. Anh Duy, Sơn và tôi từng có ý định làm một chuyến du ca khắp thế giới, đùng một cái, anh Duy bệnh. Khi anh Duy khỏi bệnh, về Việt Nam, thì anh Sơn mất. Cuộc đời này, trêu nhau lạ thế đấy.
Có bốn bài hát của chính mình nhưng ông bảo sẽ không bao giờ hát, là Mẹ tôi, Chị tôi, Quê tôi và Quê nhà. Chúng chứa điều gì?
Vì chúng đánh động tâm can tôi quá lớn. Cứ nhắc tới là tôi sẽ khóc, tôi nhớ mẹ, nhớ chị. Tôi là người đa cảm, có tính phụ nữ, khóc nhè, dù vẻ ngoài tôi nhìn trông như tướng cướp hơn là nhạc sĩ. Đời là thế mà, người trông cứng nhất nhiều khi thật ra là mềm yếu nhất và ngược lại, người mềm yếu nhất lại có lúc cứng nhất.
Cụ thể bây giờ, khoảnh khắc mềm yếu nhất của ông là khi nào?
Là những lúc tôi nhớ ngày cũ. Tôi xa Hà Nội đã 45 năm, tôi nhớ Hà Nội, nhớ mẹ, nhớ chị, nhớ những đứa bạn đã khuất nhưng hồn vẫn tha phương quanh quẩn phố phường. Tôi viết như đứa con xa quê đã viết.
Vừa rồi tôi được trao Giải thưởng lớn của Hà Nội, khi lên nhận giải tôi có nói, thật ra tôi không phải là nhạc sĩ chuyên viết về Hà Nội. Tôi chỉ viết về cái mình nhớ nhung. Chỉ là không ngờ đã 45 năm xa cách, người Hà Nội lại hát bài hát của tôi nhiều thế và người Hà Nội yêu nhạc tôi thế. Tôi mừng lắm, hạnh phúc lắm.
Ông rõ là thích những sinh hoạt vỉa hè, ngoài phố Hà Nội. Nguyễn Cường, Phú Quang… cũng viết về Hà Nội, nhưng không ai viết kiểu lang thang hè phố như ông, rồi “Hà Nội cái gì cũng rẻ, chỉ có đắt nhất tình người thôi” gây tranh cãi một thời…
Mỗi người nói về Hà Nội hay theo kiểu của mình. Tôi thì bụi đời từ bé, chuyên lang thang trong những ngõ nhỏ của Hà Nội và thích sống một cuộc sống lãng tử. Nên nói về Hà Nội là tôi nói chuyện bia hơi vỉa hè, chuyện mùa đông ăn ngô nướng, rồi ngày mưa lội sông lội phố…
Hôm đó tôi với Nguyễn Cường đi ăn sáng, 2 thằng ăn chỉ 7 ngàn. Tôi buột miệng nói với Cường: “Hà Nội cái gì cũng rẻ, chỉ có đắt nhất là mày thôi”. Nó kêu hay đấy, viết đi. Đợt đi với nó đó tôi viết được nửa bài. Rồi tôi vào Sài Gòn. Ngày hôm sau tôi cho nó xem nguyên bài, nó xem rồi khóc. Nó ban đầu tưởng tôi đùa thôi, nhưng đùa sao được. Hà Nội, những món ăn ngon, ly rượu cùng thằng bạn. Rồi “Hà Nội có lần khóc thầm, chạy lên thang gác bóng mẹ còn đâu. Hà Nội có gì rất đau, người ta yêu dấu đi không trở lại” (ca khúc Ngẫu hứng phố - PV). Thằng Cường cũng thế, giống tôi, mẹ mất rồi, nó lên thang gác cũng không còn thấy mẹ. Nó cũng ở nhà số 94, tôi là 94 Hàng Lộc, nó là 94 Hàng Bạc. Đấy, cứ thế, cái này đánh thức cái kia, viết và nhớ…
Nghe nói cháu ông, ca sĩ Trần Thu Hà thường tìm bài hát của ông ở trong… sọt rác?
(Cười) Ít nhất 2 bài hát nổi tiếng mà gắn với nó là nó tìm trong sọt rác, đến tôi còn không nhớ đó là bài của mình. Cái bài Chuyện tình thảo nguyên ấy, nó hát trong một chương trình ở Quảng Ninh, tôi nghe xong khen bài của ai hay đấy, thì nó mới bảo “Bài của bố đấy chứ của ai”.
Tôi viết nhiều lắm, không nhớ hết được. Tôi viết không phải để nổi tiếng, không phải để kiếm tiền. Tôi chỉ viết cho tôi, để đời tôi có ý nghĩa. Tôi cũng đâu ngờ rồi mình nổi tiếng. Ca sĩ đến tìm tôi kiếm bài, rồi họ hát, rồi tôi nổi tiếng thôi.
Thế nhạc sĩ có phải gặp nhiều khó khăn và phải trả giá cho sự nổi tiếng đó không?
Cái giá phải trả duy nhất là phải ký và chụp hình quá nhiều, cũng hơi mệt. Tôi cứ phải trốn. Có người gặp, bảo anh giống Trần Tiến, tôi toàn chối. Nhưng đâu phải lúc nào cũng chối được, họ bảo tôi xem anh hoài, anh là Trần Tiến, anh phải nhận đi, cho tôi chụp tấm ảnh cùng…
Nói thật là tôi sợ sự nổi tiếng của tôi. Dù tôi có là nhạc sĩ hay ai đi nữa thì tôi cũng là con người, cho phép tôi được sống cuộc sống riêng của mình. Tôi đâu phải là con búp bê hay ma-nơ-canh. Ai đời tôi đang mặc quần short ngồi uống rượu, lại cứ lôi tôi chụp hình. Điều đó đâu có hay.
Bây giờ thì sao, ông mong đợi điều gì nhất đối với sự nghiệp sáng tác của mình, sức khỏe của mình?
Tôi không mong đợi gì ngoài trời cho tôi được sức khỏe thêm ít nữa, vì còn nhiều điều tôi muốn nói với mọi người. Nhiều lắm. Thế giới đương đại bây giờ, ai cũng cắm mặt vào màn hình điện thoại, AI thì lên tiếng, ca sĩ thì chỉ mong có triệu view hơn là mong chạm đến trái tim khán giả… Tôi muốn nói nhiều về điều đó, về xã hội, về chính trị nữa… Tôi muốn tham gia, hòa với mọi người bằng những tác phẩm chân thực của tôi, nhưng mà sức khỏe có hạn. Nên tôi chẳng còn mong gì ngoài có thêm sức khỏe.


