Câu chuyện bắt đầu từ một lớp học về phân loại rác tại Nhơn Châu, Bình Định (cũ). Tiến sĩ Chu Mạnh Trinh (Ban Quản lý khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm) nhớ như in: Mới 10g sáng, một bà đứng lên xin phép với giọng hốt hoảng: “Thầy ơi, nghỉ thôi, em còn về nấu cơm cho chồng ăn đi biển!”

Người thầy hiểu tâm lý, gật đầu cho phép nhưng không quên giao bài tập về nhà. Ngày thứ hai, cũng vào giờ đó, chị lại vội vã về “bắt nồi cơm”, rồi hứa sẽ quay lại. Mọi người đều nghĩ rằng học hành và những việc nhà sẽ mãi là hai thế giới không bao giờ gặp nhau.

Thế nhưng, đến ngày thứ ba, thầy hỏi sao không về nấu cơm, chị dõng dạc trả lời: “Sáng trước khi đi em đã kịp “bắt nồi cơm” rồi. Chồng ở nhà đến giờ thì ăn, rồi đi biển. Còn em phải học chứ thầy!”.

Câu trả lời ấy không chỉ làm người thầy bất ngờ, mà còn hé mở một cuộc “cách mạng” thầm lặng trong tư duy của những người phụ nữ nông thôn. Họ không còn giới hạn mình trong vai trò “hậu phương”, mà đã ý thức được việc học tập, trang bị kiến thức chính là chìa khóa để tự chủ và góp phần xây dựng tương lai cho cả cộng đồng.

Ở phường Sa Huỳnh, tỉnh Quảng Ngãi, bà Lê Thị Kim Cúc cười khúc khích khi nhớ lại quá trình “sa chân” vào công việc môi trường: “Hồi xưa, tôi chỉ làm kinh tế thôi. Mà cán bộ tới vận động hoài: “Thôi cứ tham gia đi, lúc nào rảnh thì họp”. Nhưng tính tôi là làm gì cũng phải đến nơi, không thể chỉ đi họp cho có được”.

Thế là từ một người phụ nữ chỉ lo toan sinh kế, bà Cúc trở thành cán bộ phụ nữ, rồi bén duyên với công tác môi trường, trước khi hợp tác xã muối biển phát triển du lịch cộng đồng.

Những “bà thím” cùng thảo luận, chuẩn bị cho sự ra đời của Tổ hợp tác du lịch cộng đồng và bảo tồn nguồn lợi thủy sản Gò Hý

Những “bà thím” cùng thảo luận, chuẩn bị cho sự ra đời của Tổ hợp tác du lịch cộng đồng và bảo tồn nguồn lợi thủy sản Gò Hý

Khi được hỏi tại sao lại tham gia, rồi là thành viên nòng cốt của tổ nhặt rác, bà nói giản dị đến ngạc nhiên: “Tôi cũng không biết trả lời sao nữa. Chỉ biết làm công tác địa phương đã quen, chuyên môn là... đi dọn rác, nó bình thường quá rồi”.

Những ngày đầu, bà chưa hiểu “tập huấn rác là gì”. Nhưng khi được đưa về thôn làm điểm thí nghiệm, nhìn thấy rác ngập tràn, bốc mùi, bà không thể làm ngơ: “Mới đầu đi phân loại rác cũng mệt lắm. Rác tập trung lâu ngày thúi kinh khủng. Mình đi họp thì thấy đơn giản, chứ ra phân rác thực tế, nhiều người nhăn nhó. Mình phải xông vô làm. Người ta thấy vậy rồi cũng bắt đầu làm theo”.

Dần dà, có người bận đi làm, có người bị đau lưng, đau cột sống. Song đội nhặt rác vẫn duy trì được 6-7 người thường xuyên tham gia. Có khi cả gia đình 4-5 thành viên đi tàu hỏa từ TP Đà Nẵng xuống Quảng Ngãi, rồi đi tiếp xe buýt xuống Sa Huỳnh tham gia nhặt rác cùng “các thím”. Mỗi thứ sáu hàng tuần, họ lại ra đường, biến việc nhặt rác từ gánh nặng thành niềm vui, từ công việc cá nhân thành trách nhiệm cộng đồng.

Không riêng Sa Huỳnh, phong trào phân loại rác tại nguồn đã lan tỏa khắp nơi, và Hội An (cũ, nay thuộc TP Đà Nẵng) là một trong những điểm sáng nhất. Tại đây, khoảng 120 “thím” làm nghề thu mua ve chai, phế liệu dạo đã góp phần không nhỏ vào việc biến ít nhất 30% lượng rác thải sinh hoạt hàng ngày thành tài nguyên tái sử dụng.

Nhiều năm trước, từ các buổi sinh hoạt của Hội Liên hiệp phụ nữ Hội An, các bà không chỉ được hướng dẫn cách phân loại rác mà còn được đi tham quan học tập. Những phong trào tưởng chừng đơn giản như “xách giỏ đi chợ”, “nói không với túi nilon” - nhưng đã thay đổi thói quen tiêu dùng của cả cộng đồng. Điều đặc biệt, những “giáo viên môi trường” không chỉ là các chuyên gia từ bên ngoài mà còn là phụ nữ xã Cẩm Thanh (nay thuộc phường Hội An Đông). Như bà Phạm Thị Lai còn tự chế biến nước rửa chén, nước lau nhà từ rác hữu cơ, rồi hướng dẫn lại cho các bạn trẻ, cho bà con láng giềng. Kiến thức không còn là thứ xa xỉ mà trở thành tài sản chung của cả cộng đồng.

Hai “thím” trong tổ trồng rừng ở phường Sa Huỳnh thuyết trình về mối quan hệ giữa rừng đưng (đước) với nguồn nước và tôm cá.

Hai “thím” trong tổ trồng rừng ở phường Sa Huỳnh thuyết trình về mối quan hệ giữa rừng đưng (đước) với nguồn nước và tôm cá.

Những người phụ nữ nơi này đã không dừng lại ở việc bảo vệ môi trường đơn thuần, mà còn biến chính công việc này thành một sản phẩm du lịch học tập cộng đồng độc đáo. Câu chuyện về “vườn rau không đồng” - nơi các “thím” cùng nhau vun trồng rau hữu cơ mà không dùng phân bón hay thuốc trừ sâu - đã trở thành minh chứng sống động cho một lối sống sinh thái, bền vững.

“Cây trồng mà có bệnh, mình tìm cách chữa bằng cách tự nhiên. Như trồng hoa dẫn dụ côn trùng có ích, làm phân ủ nóng từ lá cây, thậm chí dùng nước vo gạo để tưới...” - bà Lai sẻ với niềm tự hào.

Những “phòng thí nghiệm” ngoài trời này không chỉ sản xuất ra rau sạch mà còn trở thành điểm học tập cho du khách. Bà Nguyễn Thị Đào (71 tuổi, phường Sa Huỳnh, tỉnh Quảng Ngãi) kể: “Chúng tôi ra tham quan, học tập, các bà ngoài đó sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm, từ cách ủ phân hữu cơ, đến việc quan sát côn trùng để biết cây có bệnh”.

Sự chuyển mình đáng kinh ngạc nhất có lẽ là khi những người phụ nữ U60, từ việc chỉ biết nấu ăn cho gia đình, đã trở thành những “hướng dẫn viên” đầy tự tin.

Tháng 10/2024, Tổ hợp tác du lịch cộng đồng và bảo tồn nguồn lợi thủy sản Gò Hý (phường Hội An Đông) ra đời, du khách đến không chỉ để chèo thúng, ngắm rừng dừa nước mà còn để được lắng nghe các bác nông dân giới thiệu về mô hình nông nghiệp sinh thái. Những bài học ấy không khô khan như sách vở mà nhẹ nhàng, tự nhiên như bông lúa lay lay theo gió.

Bà Võ Thị Hai, Trần Thị Nga đều lên bà nội, bà ngoại từ lâu. Những tưởng sự học sẽ mãi là điều xa vời. Thế nhưng đầu năm 2024, khi được các chuyên gia hướng dẫn thảo luận, lên ý tưởng và kế hoạch thực hiện mô hình du lịch học tập cộng đồng, các bà đều chăm chú làm bài tập, sôi nổi thảo luận không kém các lớp học ở giảng đường. Bây giờ, bà Hai, bà Nga đã tự tin hướng dẫn khách du lịch cách chằm lá dừa nước.

Bà Hai cười tươi khoe: “Khách tây thích lắm, hỏi hoài về cách làm. Mình không biết tiếng Anh, họ cũng không biết tiếng Việt, nhưng cứ hướng dẫn bằng các thao tác là hiểu nhau liền. Chúng tôi còn được học về rừng dừa, bãi bồi, nguồn lợi thủy sản. Giờ không chỉ gần 40 thành viên trong tổ, mà còn là gần 40 gia đình nắm vững quy định khai thác, bảo vệ nguồn lợi cho sinh kế cộng đồng. Xưa không dám nghĩ đến “làm du lịch” đâu, nhưng sau có chuyên gia hướng dẫn, thì thấy cứ quyết tâm là làm được”.

Đặc biệt ấn tượng là các “bà thím” của làng Gò Cỏ (phường Sa Huỳnh). Những người phụ nữ nông dân chân chất nhất đã có sự chuyển mình thật đáng ngưỡng mộ.

Năm 2017, họ tham gia Hợp tác xã du lịch cộng đồng làng Gò Cỏ. Người “trẻ” nhất thuộc lứa đầu 6X. Những người như bà Bùi Thị Vân, bà Huỳnh Thị Thương, bà Nguyễn Thị Đào thì sinh năm 1953-1954. Bao năm, người Gò Cỏ nghèo đến độ có tới 30% số hộ “bỏ làng ra đi”. Trai gái tìm hiểu nhau, chỉ cần nghe “người Gò Cỏ” là phía bên kia lắc đầu.

Nhớ lại bao năm nghèo khó, ánh mắt bà Đào vẫn chất chứa những tổn thương: “Người Gò Cỏ ra ngoài là bị khinh, nghèo đi với hèn. Trẻ còn đỡ, chớ người già có khi còn bị vỗ đầu miệt thị”…

Bà Thương tiếp lời, giọng chắc nịch: “Khi được đưa đi một số nơi để xem bà con làm du lịch cộng đồng. Chúng tôi đã quyết tâm: “Phong cảnh làng mình đẹp hơn nhiều. Họ làm được, thì người Gò Cỏ cũng làm được. Cả mấy năm gián đoạn vì Covid-19, hay năm 2021-2022 còn thưa khách, chúng tôi cũng không nản lòng”.

Bà Đào vào lớp học nấu ăn, bà Thương, bà Vân… được hướng dẫn cách vừa chỉ việc, vừa chuyển tải cho cho du khách truyền thống làm muối trên đá đã có từ ngàn năm, lịch sửa và đời sống của làng một cách gần gụi nhất… Mọi câu chuyện của các bà đều như bà nội, bà ngoại kể cho con cháu nghe - chứ không theo bất cứ chương trình soạn sẵn nào.

Điều quý giá nhất từ những “bà thím” ở các làng du lịch cộng đồng là họ làm - không chỉ để tăng thu nhập, mà còn để gìn giữ những giá trị cốt lõi của cộng đồng.

Ở Hợp tác xã Nông nghiệp sinh thái và du lịch cộng đồng Hòa Bắc (phường Hải Vân, TP Đà Nẵng), các “thím” hiểu bảo tồn con cá Niên quý hiếm chính là bảo vệ rừng đầu nguồn. “Sông và suối được nuôi dưỡng bởi rừng. Rừng mất, nước cạn, cá chết, mình cũng chết theo” - triết lý giản dị nhưng thấm thía về mối quan hệ sinh thái.

Ở Gò Hý, người dân tha thiết mong muốn rừng dừa nước - nơi cá tôm sinh sản và lớn lên - được công nhận là vùng lõi của khu dự trữ sinh quyển. Họ hiểu rõ rằng bảo vệ môi trường chính là bảo vệ sinh kế của mình và cộng đồng.

Những bà nội, bà ngoại ấy đã dạy về bảo tồn theo cách đời thường và chân chất nhất. Trong một buổi hội thảo, các “thím” bảo: “Lần hội thảo sau nhớ bàn nhiều về sinh kế nhé, nếu không, chúng tôi không đến dự họp đâu!”. Câu nói ấy không phải sự đòi hỏi vô lý mà là lời nhắn nhủ đầy thuyết phục: Bảo tồn chỉ thành công khi đi kèm với sinh kế bền vững của người dân. Không thể yêu cầu người dân bảo vệ môi trường khi bụng đói, túi rỗng.

Người phụ nữ Cơ Tu của Hợp tác xã Nông nghiệp sinh thái và du lịch cộng đồng Hòa Bắc trở thành “thầy” dạy du khách dệt thổ cẩm.

Người phụ nữ Cơ Tu của Hợp tác xã Nông nghiệp sinh thái và du lịch cộng đồng Hòa Bắc trở thành “thầy” dạy du khách dệt thổ cẩm.

Những “bà thím” ấy cũng đã chứng minh mình không chỉ là “mắt xích” quan trọng mà còn là “trái tim” của du lịch cộng đồng. Họ không chỉ làm du lịch mà còn “làm văn hóa” - giữ gìn và truyền tải những câu chuyện, những nét đẹp truyền thống. Họ “làm môi trường” - biến việc bảo vệ thiên nhiên thành lối sống. Họ làm “người gác cửa di sản” - bảo vệ những giá trị vô giá của tổ tiên.

Những “bà thím” cũng đã chứng minh du lịch cộng đồng không chỉ là việc khai thác cảnh quan hay phục vụ khách du lịch một cách thụ động. Đó là một quá trình học tập không ngừng nghỉ: học cùng nhau, học từ nhau, học từ du khách, và quan trọng nhất là học để là chính mình.

Hơn tất thảy, họ đã minh chứng: Du lịch cộng đồng chỉ thực sự bền vững khi cộng đồng làm trung tâm. Không phải do các công ty du lịch lớn điều hành, không phải theo mô hình áp đặt từ bên ngoài, mà do chính người dân địa phương làm chủ, quyết định và hưởng lợi từ du lịch.

Các “bà thím” của nhiều hợp tác xã du lịch cộng đồng là những hạt nhân thay đổi, nhỏ bé nhưng mạnh mẽ, mềm mỏng nhưng kiên định, quyết liệt. Họ đã và đang từng bước biến mảnh đất quê hương thành điểm đến du lịch bền vững - nơi du khách không chỉ đến xem và chụp ảnh, mà còn để học hỏi, trải nghiệm và cảm nhận được tình yêu giản dị, chân thành của con người với đất nước, quê hương.

Chia sẻ bài viết: