Được biết, cách đây 30 năm, anh đã bắt đầu những ý tưởng với tác phẩm Chân dung của Rỗng. Hành trình ấy hẳn có nhiều điều thú vị với anh?

Khoảng 30 năm về trước, tôi có dịp về Bát Tràng làm gốm khi đang là sinh viên ngành điêu khắc Trường đại học Mỹ thuật TPHCM. Trong thời gian ở đó, tôi quan sát thấy trên bàn thờ có một bình gốm luôn để trống, trong khi các bình khác đều có hương, hoa. Khi tìm hiểu, tôi được biết bình đó luôn để trống vì nó tượng trưng cho sự Rỗng - một ý niệm thâm trầm trong Phật giáo.

Tôi ngạc nhiên và rất hứng khởi khi thấy một ý niệm sâu sắc lại được trình bày một cách đơn sơ nhưng đầy thuyết phục. Tôi cắt bình làm đôi để mọi người thấy sự rỗng. Khi thấy hình nửa bình giống phần trên của một con người, tôi sáng tác thêm phần bệ dưới, biến nó thành một hình tượng người tọa thiền trong tư thế hoa sen. 

Tôi thêm lên tượng chuỗi tràng hạt mà người tu tập thường dùng trong các buổi thiền định. Tôi gắn những sợi dây ở phần thân tượng. Đây là ý tưởng được truyền cảm hứng từ bài tiểu luận của triết gia Ralph Waldo Emerson về “Self-reliance”. Ông viết: “Hãy tin vào chính mình: mọi trái tim đều rung lên trước sợi dây đàn ấy”. Với Emerson, “sợi dây đàn” là ẩn dụ cho chân lý bên trong sâu thẳm - mạnh mẽ, chân thật, không bị ảnh hưởng bởi tiếng ồn của thế giới bên ngoài. Còn trong Phật giáo, chân lý lại nằm ở khái niệm sự Rỗng - khoảng lặng vượt lên cái tôi, nơi mọi hình tướng đều tan biến. Việc đặt những sợi dây trong thân tượng Phật là cách tôi thể hiện nghịch lý ấy: rằng sự rung động chân thực (sợi dây đàn của Emerson) chỉ xuất hiện khi cái tôi được làm rỗng đi. Tác phẩm Phật giáo này, vì thế, là nơi gặp gỡ giữa Đông và Tây - nơi tự do nội tâm vừa là âm thanh của niềm tin vào chính mình, vừa là sự tĩnh lặng của vô ngã. Bức tượng gợi lên tiếng vọng từ cả trí tuệ phương Tây và minh triết phương Đông. Tôi đặt tên tượng là “Chân dung của Rỗng” hay “Phật đương đại”.

Sau đó, tại làng gốm Biên Hòa, tôi khoét rỗng thêm phần trên của tượng, cho sự rỗng và không gian xuyên qua tự do. Phiên bản này đã cùng tôi đến Mỹ vào năm 1994. 

Vào năm 2011, tại California (Mỹ), phiên bản tượng đúc đồng silicon và đánh bóng sáng như gương ra đời, người xem có thể “thấy” chính họ trên tượng, giống như một sự tự soi chiếu nội tâm trong Phật giáo. Cùng thời kỳ này, tôi sáng tác một phiên bản đúc đồng khác, kích thước nhỏ khoảng một bàn tay, được thiết kế để có thể treo trên tường, tạo cảm giác lơ lửng giữa không gian.

Năm 2024 tại Sài Gòn, sau nhiều thử nghiệm với các chất liệu điêu khắc khác nhau, tôi trình bày một hình thức mới cho “Chân dung của Rỗng”, cao 140cm, với chất liệu thép không gỉ - một phiên bản hoàn hảo cho các không gian trưng bày ngoài trời.

Các phiên bản tượng Phật đương đại đã được các nhà sưu tập tại Việt Nam và thế giới, các nhà sư Tây Tạng trân trọng giữ gìn, đặt vào những không gian khác nhau: dưới tán cây trong vườn, bên một hồ nước, trong phòng khách của gia đình trên ô tô, trong phòng ngủ, phòng làm việc, những bảo tàng và cả không gian co-working space… 

Chân dung của Rỗng đã gây nhiều ấn tượng trong cuộc triển lãm kỷ niệm 10 năm Bảo tàng nghệ thuật đương đại Flamingo hoạt động. Phiên bản đang được triển lãm khác gì với những phiên bản trước đó, thưa anh?

Từ năm 2021 đến 2023, tôi dành thời gian nghiên cứu và thực hiện nhiều mẫu thử, đi tìm một hình thức mới cho “Chân dung của Rỗng”.

Trong phiên bản tại Flamingo Museum of Art này, hình thể nguyên gốc của tác phẩm điêu khắc “Chân dung của Rỗng” được “cắt” thành 89 lớp dọc, tạo nên hiệu ứng thị giác ngoạn mục về sự vô hình. Khi nhìn thẳng từ phía trước, tượng trở nên như trong suốt - hòa tan vào không gian, tan vào bầu trời, con người và những cảnh vật phía sau. Tượng Phật không biến mất, mà trở thành một với môi trường - một sự hiện diện sự tĩnh lặng, hài hòa và bình an.
Trong hình thức mới này, Tượng Phật không chỉ gợi lên sự tĩnh tại, mà còn là biểu hiện của vô thường, tánh không và sự hòa hợp với vạn vật.

Đây là một phiên bản độc đáo. Tại FCAM, khi đi xe điện, đi bộ hoặc đạp xe dọc theo hàng thông, sẽ có lúc các bạn thấy hình hài tượng tan biến, trở nên trong suốt, hoà làm một với môi trường xung quanh. Người xem lúc đó có thể nhìn xuyên qua tượng để thấy mây trời và cảnh vật mênh mang phía sau, dù là ngay khoảnh khắc trước đó, họ thấy “Chân dung của Rỗng” là một hình khối rực ánh vàng trong nắng.

Bình minh và hoàng hôn, ở châu Mỹ  hay châu Âu, ở Sài Gòn, ở Đại Lải, hay ở Bát Tràng chiếu lên “Chân dung của Rỗng”, khi thì rực rỡ, chói lòa, khi lại trong veo như tan biến, vô hình. Mặt trời đó như dõi theo từng bước biến chuyển trong hành trình của Rỗng, ở mọi phương trời, như chứng nhân cho từng dấu mốc - từ thuở khai sinh bức tượng gốm Rỗng đầu tiên, ra đi, phát triển, tự làm mới mình, để rồi trở về, hòa cùng dòng chảy nghệ thuật đương đại. 

Sau hơn 30 năm, Rỗng đã trở lại miền Bắc - nơi khởi nguồn cho hành trình chu du thế giới của chính mình. Đồng hành với Rỗng luôn có một mặt trời, và rất nhiều hoàng hôn!

Có thể hình dung với mỗi phiên bản Chân dung của Rỗng là một lần anh chơi cùng và trò chuyện với đức Phật hay không?

Mỗi phiên bản mới là một lần tôi chiêm nghiệm lại triết lý thâm trầm này của Phật giáo. Tôi nhớ trong phiên bản gốm Biên Hòa và bản đúc đồng sau đó, bố tôi kể, khi giảng đạo, Phật lấy tay chỉ mặt trăng, trong các đồ đệ của Ngài, chỉ có Ca Diếp là mỉm cười. Nụ cười của sự giác ngộ. Tôi đặt vầng trăng lên trên, biến nó thành phần đầu của tượng. Sự minh triết mà tôi và chúng ta có lẽ đang muốn hướng tới mà Phật đã chỉ đường.

Trong quá trình sống, học tập và làm việc ở nhiều bang của Mỹ và các châu lục khác, tôi đã tìm hiểu thêm về Phật giáo và các tôn giáo khác. Sự mở rộng kiến thức Phật giáo, cũng như việc đối chiếu với nhiều nền văn hóa đã làm sâu sắc thêm triết lý Rỗng trong “Chân dung của Rỗng”, hay tượng Phật đương đại. 

Tại California, bản mới “Chân dung của Rỗng” lần đầu ra mắt bản bằng đồng silicon và đánh bóng như gương, cho phép người xem thấy hình ảnh phản chiếu của chính mình trên bề mặt tượng. Đây là một lựa chọn có chủ đích: trong Phật giáo, việc nhìn thấy mình - không chỉ ở hình tướng bên ngoài mà với sự tỉnh thức nội tâm - chính là một hình thức quán chiếu, hay còn gọi là chiêm nghiệm sâu. Khi chiêm ngưỡng tượng Phật, người xem cũng đồng thời đối diện với hình ảnh của chính mình, như một lời nhắc rằng sự tỉnh thức bắt đầu từ cái nhìn hướng vào bên trong. Tác phẩm vừa là tượng, vừa là gương soi - là không gian của tĩnh lặng, minh triết và sự tự ngộ. 

Cho tới nay, tác phẩm tượng Phật đã đi qua hơn 30 năm phát triển xuyên suốt về ý tưởng và nền tảng về hình khối của một nhà điêu khắc, đã chuyển hóa qua nhiều hình thái: từ chất gốm mộc mạc của Bát Tràng, tới sắc men trầm ấm của Biên Hòa, đến ánh đồng sáng loáng như mặt gương, tới phiên bản cắt lát khiến bức tượng như hòa vào cảnh quan xung quanh. Mỗi chất liệu là một nhịp thở khác nhau của Rỗng - lúc đặc, lúc nhẹ, lúc như tan vào ánh sáng. 

30 năm cùng Chân chung của Rỗng, với những suy ngẫm về triết lý nhà Phật, hãy diễn tả bước chân anh đi trên con đường nghệ thuật của mình trong quãng thời gian ấy?

Tác phẩm tượng Phật hay còn có tên là “Chân dung của Rỗng” là kim chỉ hướng, nó chỉnh ta đến một tâm thái khi ta hạnh phúc và an bình với chính mình, và đó cũng có nghĩa là an bình với cả với cả thế giới xung quanh.

Ưu Đàm là một bông hoa nhà Phật, 3 ngàn năm mới nở 1 lần. Hoa Ưu Đàm khi nở báo hiệu sự ra đời của Đức Như Lai và hòa bình cho nhân loại. Tên Ưu Đàm có lẽ đã kết nối tôi với triết lý Phật giáo theo một mối duyên vô hình, lặng lẽ mà bền bỉ, đưa tôi đi qua hành trình sáng tạo không giới hạn cho “Chân dung của Rỗng trong suốt hơn ba mươi năm qua, và sẽ tiếp tục trong nhiều năm về sau nữa. 

Sau triển lãm ở FCAM, anh muốn tiếp tục làm điều gì đó với Chân dung của Rỗng không?

Tôi vẫn đang tiếp tục phát triển ý tưởng Tòa nhà Phật - một không gian nơi hình thể và tinh thần giao hòa trong sự thăng hoa.

Tôi tin rằng một tòa nhà 101 tầng, hoặc thậm chí có thể cao hơn, trong hình hài “Chân dung của Rỗng”, sẽ trở thành một công trình mang tính biểu tượng không chỉ của Việt Nam mà còn của châu Á - cái nôi của Phật giáo. 

Tòa nhà Phật (Buddha Building) mang lại cảm giác tĩnh tại, lan tỏa bình an tới muôn người, toát lên vẻ tĩnh tại qua hình thức thiền định đầy thiêng liêng.

Ẩn trong cấu trúc thanh thoát ấy là một quần thể hài hòa: các tòa nhà văn phòng, bảo tàng, trung tâm nghệ thuật, thương mại, không gian thể chất và thể thao, vườn Thiền, thác nước, công viên, khu dân cư và những nơi chốn cho đời sống thường nhật lắng lại trong tĩnh lặng. Trên đỉnh cao nhất, một hồ bơi vô cực mở ra bầu trời - nơi ta có thể thả mình lặng lẽ, ngắm nhìn đường chân trời bất tận, và cảm nhận sự giao hòa giữa thân thể, không gian và vô biên.

Chia sẻ bài viết:
BẠN CÓ THỂ QUAN TÂM