Phóng viên: Bài thơ để bà bước vào đền đài văn chương thi ca chính là bài “Hương thầm” một mối tình tinh tế, với hương bưởi rất đẹp và thơm phải không thưa bà?
Nhà Thơ Phan Thị Thanh Nhàn: Tôi viết bài thơ ấy vào tháng 3/1969 nhân sự kiện em trai tôi là Phan Hữu Khải lên đường đi bộ đội. Khi ấy, nhà bố mẹ tôi ở đê Yên Phụ, trong vườn có cây bưởi to, đến mùa hoa nở trắng mướt, hương thơm vô cùng. Khải là cậu trai dễ thương, thi thoảng hay hái hoa bưởi bỏ lén vào túi của tôi, khi tới chỗ làm, mở túi ra thấy một mùi thơm mát tôi mới biết là Khải hái hoa bưởi cho chị, vì biết chị sẽ thích.
Ngày nhập ngũ của em Khải, có cô gái học cùng thầm thương trộm nhớ. Mà thời đó đi bộ đội thương lắm, ai cũng thương… Tôi viết bài thơ “Hương thầm” kể lại câu chuyện tình nhẹ nhàng như mùi hương hoa bưởi, “Cửa sổ hai nhà cuối phố/ Không hiểu vì sao không khép bao giờ/ Đôi bạn ngày xưa học chung một lớp/ Cây bưởi sau nhà ngan ngát hương đưa”. Cây bưởi ấy chính là nhân chứng chuyện tình cảm trong sáng, kín đáo của người con gái với chàng trai… Ngày mai chàng lên đường nhập ngũ, lúc tiễn đưa lòng nặng bồi hồi, tặng gì cho người ấy đây. Hồi xưa người con gái thường hay thêu lên khăn tay tặng chàng trai những bông hoa, dòng chữ thương nhớ, và kèm một tấm ảnh… Nhưng mà cô gái hay lắm, cô gái lấy một chùm hoa bưởi kẹp vào chiếc khăn tay rồi “Cô gái ngập ngừng sang nhà hàng xóm/ Bên ấy có người ngày mai ra trận/ Bên ấy có người ngày mai đi xa…”. Cô gái nhờ hoa bưởi, để nói hộ lòng mình… Thời xưa, người con gái Hà Nội là vậy, chỉ có sự giản dị, nhưng lại rất tinh tế, đáng yêu. “Họ ngồi im không biết nói năng chi/ Mắt chợt tìm nhau rồi lại quay đi/Nào ai đã một lần dám nói”… Câu chuyện chàng trai đem theo chiếc khăn tay có giấu chùm hoa bưởi phảng phất theo mỗi chuyến đi, thật thơ, thật mộng trong thơ, trong nhạc. Tôi còn nhớ em đã từng viết một bức thư tâm sự: “Đêm nay bọn em ở trong rừng Trường Sơn, đơn vị có một cái đài thôi và cả đội đang nghe chương trình Tiếng Thơ có bài thơ “Hương thầm” của chị do nghệ sĩ Trần Thị Tuyết ngâm, em nhớ nhà lắm”. Lá thư cuối cùng của em có dòng chữ cuối: “Chị nói mẹ đừng lo gì cho em. Khi nào đất nước thống nhất em sẽ về”. Chưa kịp viết thư thì nhận được tin em đã hy sinh tại chiến trường A Lưới khốc liệt. Em nào có biết, tôi viết bài thơ đó lấy cảm hứng và nguyên mẫu từ em. Em chưa kịp yêu đương, chưa kịp hưởng hạnh phúc đã hy sinh vào độ tuổi thanh xuân đẹp nhất và dù chiến tranh đã trôi qua, nhưng từ A Lưới như một nơi để gia đình tôi nhớ về em.
Thời xưa người ta yêu đương nhẹ nhàng nhỉ, và nghe nói bà cũng có mối tình đầu thuở mới lớn rất đẹp và nguyên mẫu cũng đã “bước” vào bài thơ “Con đường” “đình đám” phải không?
Bài thơ “Con đường” mà có nhiều người thường hỏi tôi-người ấy là ai: “Nếu anh đi với người yêu/ Chỉ mong anh nhớ một điều nhỏ thôi/Con đường ta đã dạo chơi/Xin đừng đi với một người khác em…Nếu cùng người mới dạo chơi/Xin anh tránh nẻo đường vui ban đầu”… Anh ấy nguyên là Đại sứ Việt Nam tại Ấn Độ, Isarael, Kuwait, Syria và Palestine… Mối tình đầu khi ấy tôi 19, chàng độ 22, 23… và trời ơi chúng tôi mới chỉ yêu ở mức cầm tay nhau, che chung một áo mưa thôi, cài cho nhau quai dép, mà đã run rẩy và ngại ngùng vô cùng. Có khi anh cũng chẳng biết mình chính là người được nhắn gửi trong bài thơ “Con đường”, đó là những kỷ niệm đẹp thời mới lớn. Sau đó thì chàng mải những chân trời mới, còn tôi cũng phải học hành và đi làm. Sau một năm, tôi gặp nhà tôi, nhà thơ Thi Nhị, một người đàn ông giản dị, đẹp trai. Anh đã tốt nghiệp Khoa Sử trường Đại học Tổng hợp và đang công tác trên Tây Bắc thì về học lớp Viết Văn của Hội nhà văn Việt Nam tại Quảng Bá. Tôi lên xe hoa và sau đó thì anh bạn tôi cũng lấy vợ. Sau này có những quãng thời gian anh vẫn quan tâm gửi hoa chúc mừng tới cơ quan tôi, nhưng mà chúng tôi hầu như không gặp lại nhau nữa.
Các tác phẩm cùa nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn
Và bà đã có quãng thời gian hạnh phúc với chồng mình chứ?
Chồng là mối tình thật sự của tôi, là bố của con tôi, ông mất năm 1979 khi tôi 36 tuổi, con gái nhỏ mới có mấy tuổi. Để tôi kể lại những câu chuyện kỷ niệm tuy ngắn ngủi nhưng có những quãng thời gian hạnh phúc bên chồng. Đó là mùa hoa ban 1968, khi tôi đi thăm chồng lúc đó theo cơ quan sơ tán ở Tây Bắc. Chuyến đi khá vất vả, ba ngày hai đêm, sau đó phải đi bộ khá xa đến xẩm tối mà vẫn chưa tới. Ông xã đón tôi ở một ngã ba rồi vào trong hang đá ngủ. Sáng, khi bước chân ra ngoài hang, tôi như òa vỡ vì trước mặt mình là một khung cảnh thần tiên, hoa ban nở tuyệt đẹp làm tôi thấy giống như mình đang ở trong một giấc mơ… Sau này cho dù đi Tây Bắc nhiều lần ngắm hoa ban, nhưng tôi không thấy lại cảnh tượng đó. Những ngày ở Tây Bắc, ông xã đưa tôi đi xuyên rừng, thăm các đồn biên phòng và dân bản. Tôi được chứng kiến cảnh các chiến sĩ biên phòng phi ngựa đi tuần qua núi rừng, trẻ con ở bản cho dù trong chiến tranh nhưng vẫn rất xinh xắn hồn nhiên. Khi trở về, tôi đã viết bài thơ “Ngựa biên phòng”: “Chú công an biên phòng/Rạp mình trên lưng ngựa/Ngựa phi nhanh như bay…” Sau này, bài thơ đã in trong sách giáo khoa cấp 1.
Những năm 1972-1979 tôi là phóng viên báo Hà Nội Mới, còn ông xã tôi khi ấy mới chuyển về Viện Khoa học Xã hội tại Hà Nội. Nhà chồng chật chội, 30m2, nhà lá mà cả bố mẹ, em trai, em gái và vợ chồng tôi là 7 người ở chung. Bốn chiếc giường kê sát nhau, không gian chật hẹp, ai tới chơi cũng ái ngại và có lần anh Hồng Lĩnh - Tổng biên tập Báo Hà Nội Mới thăm nhà, thấy hoàn cảnh vậy nên thương mà cho vợ chồng tôi được ở nhờ trên tầng thượng - gác 4 của báo Hà Nội Mới. Ở đây, tôi đã viết bài “Gác tư”. “Phòng tôi ở gác tư/Cầu thang bảy mươi bậc/Mở cửa sổ nhìn ra/Một vùng trời đầy ắp/Sông Hồng trôi trước mặt/Hồ Gươm nằm dưới chân/Đêm giao thừa nhìn xuống/Như xem đèn kéo quân”. Thời gian vợ chồng tôi ở đây, các bạn gái thân như Ý Nhi, Xuân Quỳnh và các nhà văn Tô Hoài, Tế Hanh, Nguyễn Đình Thi, Việt Phương cũng thường xuyên ghé thăm và trò chuyện cùng ông xã tôi.
Mất chồng ở độ tuổi đang còn nhiều lửa, làm thế nào để bà lấp nỗi chông chênh ấy?
Sống với chồng 10 năm, chồng mất, cuộc sống của tôi chông chênh hơn. Tôi sống chung với nỗi cô đơn từ bấy giờ để nuôi con. 8 năm sau khi chồng tôi mất, 2 mẹ con chuyển về ở khu tập thể Thành Công. Hồi ấy, phía đối diện có căn phòng nhỏ vài mét vuông là một cậu du học sinh Bulgari, kém tôi 10 tuổi, chưa vợ, làm việc ở khoa Toán-Viện Khoa học Việt Nam. Chàng hết lòng chăm sóc 2 mẹ con tôi, từ gánh nước, nấu cơm, xây bể nước, tới cả đi họp phụ huynh cho con gái tôi. Mỗi khi đi làm về muộn, thấy cảnh chàng và con gái mình (lúc đó khoảng 9, 10 tuổi) đang ríu rít nấu cơm, trò chuyện, tôi thấy bình yên lắm. Hai bên gia đình và bạn bè đều biết. Yêu nhau được vài năm, chàng sang Bulgari làm tiếp luận văn. Hai mẹ con lại một mình rau cháo nuôi nhau.
Năm 1987, tôi được cử sang Nga học mấy tháng tại Học Viện Gorky, khi trường cho du học sinh ra biển nghỉ một tuần, tôi được trưởng đoàn là nhà thơ Hữu Thỉnh đồng ý cho sang Bulgari thăm người yêu mình lúc đó đang ở Plopdip của Bulgari. Nhà thơ Trần Đăng Khoa đã giúp tôi, đưa tôi đi tàu điện ngầm rồi đi bộ đến Đại sứ quán xin phép. Chị tham tán xinh đẹp tưởng tôi và Trần Đăng Khoa đến xin đăng ký kết hôn nên lắc đầu, may quá, khi nhận ra nhà thơ Trần Đăng Khoa, chị đã cười rất tươi và cấp ngay thị thực cho tôi sang Bulgari thăm chàng Plopdip. Tôi đã gặp được chàng của tôi, khi chia tay, cũng là một bài thơ hình như là dấu hiệu của những rạn nứt và sự chia tay, cũng có lẽ từ đó…
“Khi chia tay em đã khóc
Plopdip bây giờ tuyết trắng
Và anh cũng thành xa xăm…
Nơi ấy bao giờ em trở lại?
Tay em bao giờ anh lại cầm?”
Sau này, người ấy đã lấy vợ, có con cái hạnh phúc. Chúng tôi cũng không còn gặp nhau.
Thế mới thấy hồi trẻ, đến những giọt nước mắt cũng đẹp nhỉ. Rồi thế ngoài chàng “phi công”, bà không “phải lòng” ai nữa để có một cuộc sống hôn nhân mới?
Tôi cũng từng tập yêu và được yêu nhưng hình như: Tình đẹp khi tình dang dở. Cũng có những người tưởng là có tình cảm thật lòng với tôi, nhưng hóa ra chẳng phải. Một lần, có một cậu trai trẻ bày tỏ tình cảm yêu quý tôi, nhưng dăm bữa lại nhắn là nhà có việc khó khăn nên cần tiền, cô hãy giúp cháu. Tôi cũng gửi vài chục triệu giúp cậu ấy mà cũng không đắn đo là họ có lừa mình hay không. Sau vài người bạn tôi biết, mắng tôi một trận và nói cậu ấy bằng mọi giá phải chuyển khoản trả ngay tiền cho tôi. Chắc cậu ấy cũng sợ nên đã trả tôi đầy đủ. Mọi người bảo tôi khờ và bị lừa đảo. Tôi cũng chỉ cười lặng thinh. Có những người tỏ tình, tôi ghi nhận, nhưng mà biết sao được, lòng tôi nguội lạnh mất rồi và tôi có viết bài “Tạ lỗi” để người thương mến tôi hiểu rõ mà bỏ qua cho tôi:
“Ôi những lời thương mến
Sao tim tôi hững hờ
Sao tôi không xúc động
Sao tôi không vấn vương
Tôi cứ bơ vơ mãi
Giữa cuộc đời mến thương
Bởi lòng tôi đã chết
Bởi tình tôi đã tan"
Dường như còn có một Thanh Nhàn với những ưu tư, thậm chí gây bất ngờ cho không ít độc giả?
Những năm 1990, tôi có viết bài “Bài thơ cuộc đời” in trên báo Người Hà Nội, xin đọc qua để bạn đọc trẻ ngày nay dễ nhận diện:
“Nếu anh thực yêu em
Sao anh không tặng hoa?
Nếu anh thực yêu em
Sao anh không giúp đỡ
Nếu anh thực yêu em
Sao anh không bỏ vợ? Nàng hỏi – chàng lặng yên
Rồi rụt rè bào chữa”
Đến với nhau đã khó
Anh thực lòng yêu thương”
Nàng cúi đầu nức nở
Chàng dịu dàng nhẹ ôm
Ôi!Mối tình trắc trở
Bao nhiêu là đa đoan
Dù thế nào đi nữa
Vẫn đang là mùa Xuân
Không còn ai lừa gạt
Mới thực là cô đơn…”
Báo vừa ra lò thì tôi nhận ngay điện thoại của nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi: “Sao cô dám viết một bài thơ táo bạo như vậy? Liệu mà giải trình với cấp trên”. Rất nhiều thư từ, điện thoại gọi Tổng Biên tập báo Người Hà Nội lúc đó là nhà văn Tô Hoài phản ánh về bài thơ này. Họ coi bài thơ khuyến khích sự tha hóa trong hôn nhân và tình yêu, gì mà hỏi người ta “Sao anh không bỏ vợ”, rồi thà có người lừa gạt còn hơn không... Tôi đã trình bày, sau chiến tranh, tôi đi thực tế tại các nông trường, đa phần người làm là chị em phụ nữ Thanh niên xung phong chống Mỹ cứu nước trở về. Họ đã quá lứa, lỡ thì vì đã đi qua tuổi thanh xuân. Một số vị lãnh đạo tha hóa đã làm cho họ có bầu. Tôi đau xót và thương các chị vô cùng nên đã viết bài thơ với những câu hỏi như thế để nhắc nhẹ các anh xin đừng làm tổn thương chị em. Mọi người nghe xong đã hiểu và thông cảm, nhà văn Tô Hoài cũng đã giải thích ý nghĩa của bài thơ nên cuối cùng tôi cũng được “tha” về tội làm thơ “đồi trụy”. Thực ra, đó là tiếng lòng trước nỗi niềm của các chị Thanh niên xung phong sau chiến tranh, mà tôi bất lực, chẳng thể làm được gì ngoài việc giãi bài bằng bài thơ ấy.
Bây giờ bà thấy cuộc sống của mình ra sao?
Tôi thấy mình được khá nhiều người yêu mến, tôn trọng. Đó là một hạnh phúc không gì sánh bằng. Tôi thấy chẳng cần phải có nửa kia, cuộc sống một mình ung dung tự tại tự nuôi bản thân, tự quyết mọi việc, con cái thi thoảng chỉ nhắc mẹ đừng có “chơi quá”, thể dục “quá” kẻo quá sức. Thế thôi.
Tuần đôi lần tùy thời tiết và sức khỏe, không đi bộ, đạp xe, đi chơi, thì tôi sẽ tới sàn, đi nhảy. Tôi nhảy với các cháu còn trẻ. Trước kia cũng có “pát-nơ” nam là mấy ông trung niên, nhưng mà hình như phu nhân của các ông có vấn đề gì đó có vẻ như ghen ngầm. Thấy mệt quá nên tôi tạm biệt ngay. À hôm nào chán nhảy thì tôi đi bơi cho khỏe.
Bà có biết là nhiều người trẻ vẫn thầm tị với bà vì bà hơn 80 tuổi rồi mà nhìn bà ai cũng thấy tràn ngập năng lượng tích cực, bà có thể chia sẻ ít bí quyết cho chị em?
Thấy cái gì mệt, ta phải gạt bỏ ngay, không chơi. Mấy bài thơ tôi viết hồi trẻ khi cũng có những phút yếu lòng, những lúc chông chênh, nhưng mà rồi sẽ qua thôi, tuổi trẻ ai rồi cũng vậy. Sang thế kỷ 21 rồi, đọc lại thơ viết ngày trước, tôi cũng thấy như này:
“Bài thơ tôi viết ngày xưa
Tình sao chân thật, ngây thơ ngọt ngào
Bây giờ tóc bạc, tuổi cao
Thơ mình, mình đọc, câu nào cũng thương”.
Giờ đây ở tuổi này, chủ trương của tôi là sống khỏe. Một ngày mình được sống khỏe, nghĩa là may mắn lắm rồi, chẳng còn mong ước gì nữa. Ngày đẹp trời - hơn ngày bão tố; khỏe- hơn là ốm. Tôi ốm rồi cũng phải cố gắng để khỏe. Cuộc đời đáng yêu từ những gì nhỏ bé, giản dị, như bài “Đám cưới ngày mùa”: “Các cụ ông say thuốc/Các cụ bà say trầu/Còn con trai, con gái/Chỉ nhìn mà say nhau”. Đấy, thôi, hãy cứ yêu nhau, cứ say nhau đi. Còn người cao tuổi như tôi thì hãy cố gắng sống vui sống khỏe. Đôi khi tôi biết có bạn không tốt với mình, nhưng tôi vẫn lặng im rồi bỏ qua, coi như không biết. Cuộc đời ngắn lắm.
Xin cảm ơn bà. Chúc nhà thơ thêm nhiều năng lượng tích cực!
Nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn sinh năm 1943 tại Hà Nội, học báo chí trong nước và học viết văn tại Liên Xô (trước đây); nguyên phóng viên Báo Hà Nội Mới; nguyên Phó tổng biên tập Báo Người Hà Nội và Phó chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Hà Nội, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Nhà văn Hà Nội trước khi nghỉ hưu.
Hiện nay bà đã 82 tuổi sống và viết tại Hà Nội. Nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn đã xuất bản 13 tập thơ và văn xuôi, được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2007 cùng nhiều Giải thưởng Văn học khác. Bà là thành viên Ban Giám khảo nhiều cuộc thi, trong đó nổi bật là cuộc thi Viết thư Quốc tế UPU dành cho thiếu nhi.