Phóng viên: Thưa tiến sĩ, con đường nào đã đưa ông đến với công việc đặc biệt - du lịch học tập cộng đồng?
Tiến sĩ Chu Mạnh Trinh: Tôi không phải người làm du lịch mà là người làm bảo tồn. Ngày trước, tôi học về bảo tồn với quan điểm đơn giản là bảo vệ tuyệt đối tự nhiên: cấm chặt cây, bắt thú trên rừng và cấm đánh bắt cá dưới biển.
Bước ngoặt thực sự đến khi tôi được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Nam (trước đây) cử đi đào tạo chuyên sâu về môi trường. Tôi thấy lĩnh vực môi trường quá hay nên xin đi học chuyên sâu. Khi phỏng vấn về việc có được nhận học bổng hay không, họ hỏi: “Anh đi học môi trường rồi về làm gì?”. Tôi trả lời: “Tôi ở Quảng Nam, có một đảo tên Cù Lao Chàm cần được bảo vệ môi trường sinh thái”. Họ nghe đến đó là đồng ý ngay: “Chúng tôi cũng đang đi tìm những người có nhu cầu”. Thế là tôi nhận học bổng, được đào tạo bài bản về quản lý tài nguyên môi trường.
Sau khi về nước, tôi tham gia dự án xây dựng và phát triển Khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm. Dự án này, giai đoạn đầu được Đan Mạch tài trợ 1 triệu đô, sau đó là 1,5 triệu đô, đã đặt nền móng vững chắc cho công tác bảo tồn tại đây. Khi Khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm thành công, nhà nước đã thấy rõ nguyên lý, nên các khu bảo tồn sau này hầu như do nhà nước đầu tư.
Phóng viên: Ban đầu, quan điểm bảo tồn của ông có vẻ khá “cứng rắn”. Điều gì đã khiến ông thay đổi và tìm đến khái niệm sinh thái nhân văn?
Tiến sĩ Chu Mạnh Trinh: Đúng vậy, ban đầu, quan điểm bảo tồn của tôi khá “cực đoan”. Tuy nhiên, thực tế đã dạy cho tôi những bài học quý giá. Một thời gian sau, những lý luận trong sách vở không đủ thuyết phục tôi.
Bà con hỏi “nếu cấm thì lấy gì mà ăn?”. Câu hỏi tưởng như đơn giản ấy lại khiến tôi day dứt. Vì rõ ràng, lý thuyết bảo tồn không thể đứng trên miếng cơm manh áo của người dân. Khi theo dõi các chỉ số, tôi nhận thấy cá không lên, chim không về, côn trùng cũng ít đi, nhưng quan trọng là dân vẫn đói vì không có gì để mưu sinh. Từ những trăn trở đó, tôi bắt đầu suy nghĩ về mối quan hệ cần giải quyết giữa tự nhiên và con người. Đây là lúc hình thành khái niệm sinh thái nhân văn - nghiên cứu sự tương tác hài hòa giữa con người và môi trường. Rồi mới kết hợp với du lịch.
Một góc rừng Cù Lao Chàm Ảnh: T.N
Phóng viên: Du lịch kết hợp với bảo tồn sẽ như thế nào? Điểm khác biệt cốt lõi của nó là gì và động lực nào đã khiến ông tin tưởng mạnh mẽ vào khả năng của cộng đồng?
Tiến sĩ Chu Mạnh Trinh: Du lịch bảo tồn biển thực chất là du lịch bảo tồn hay du lịch khai thác tri thức, dựa trên sự hiểu biết giữa con người và thiên nhiên. Loại hình du lịch này tập trung vào việc tìm hiểu, nghiên cứu và học tập.
Trên nền tảng sinh thái nhân văn, chúng tôi đã phát triển khái niệm du lịch học tập cộng đồng. Mô hình này phải đáp ứng hai vế: của du khách và của người dân địa phương (người chủ). Mỗi vế đều phải giải quyết được nhu cầu của năm giác quan, không chỉ đơn thuần là ăn uống hay ngắm cảnh, mà là ăn, ngửi, sờ, lắng nghe, cảm nhận. Bên cạnh đó, du lịch cần kích thích trí lực và vận động, để du khách được khỏe mạnh, có kiến thức và cảm xúc.
Ai sẽ là người làm loại hình du lịch này? Một người chỉ học về lý thuyết không thể làm được. Tôi tin rằng chính người dân, cộng đồng mới là chủ thể. Dù họ rất giỏi bơi lặn, hiểu biết về địa phương và giàu cảm xúc, nhưng làm du lịch cần kỹ năng thể hiện. Do đó, cần gắn kết với nhà trường để cộng đồng học được cách thể hiện, chứ không phải học tri thức họ đã biết. Cái người dân cần học không phải tri thức, mà là kỹ năng thể hiện tri thức ấy một cách hấp dẫn, chạm đến người khác.
Phóng viên: Ông và nhà trường - nơi ông nhận lời giảng dạy sau khi nghỉ hưu đã tham gia vào quá trình đào tạo và phát triển du lịch học tập cộng đồng như thế nào, thưa tiến sĩ?
Tiến sĩ Chu Mạnh Trinh: Để du lịch học tập cộng đồng phát triển bài bản, vai trò của nhà trường là không thể thiếu. Hiện nay, tại Trường đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng - nơi tôi giảng dạy, tôi lồng ghép một phần về du lịch cộng đồng vào môn quản lý tài nguyên dựa vào cộng đồng. Thậm chí có một môn học riêng là du lịch học tập cộng đồng, sinh viên phải học tới 10 ngày.
Tiến sĩ Chu Mạnh Trinh say mê nói về góc vườn ươm được trẻ em yêu thích
Các em nhỏ học về sinh thái cùng tiến sĩ Chu Mạnh Trinh
Phóng viên: Ông có kỷ niệm nào đáng nhớ về việc đưa sinh viên ra thực tế học cùng cộng đồng? Khi các em sinh viên nói: “Thầy ơi, bác ngư dân kia dạy sinh thái hơn thầy”, cảm xúc của ông lúc đó ra sao?
Tiến sĩ Chu Mạnh Trinh: Tôi từng không dám đưa học viên cao học ra ngoài vì sợ, nhưng hóa ra các bạn vững vàng hơn tôi tưởng. Khi ra biển, các học viên rất mừng, được bơi, được lặn, được nhìn, được ngắm rồi được nghe mấy bác ngư dân kể chuyện. Các học viên nói: “Thầy ơi, bác ngư dân kia dạy sinh thái hơn thầy”. Cảm xúc lúc đó không phải chạnh lòng đâu, mà là niềm vui sướng, một sự tự hào về hiệu quả của phương pháp giảng dạy mà mình đã chọn. Đó là mục tiêu tôi đưa ra, còn những gì tôi nói trên giảng đường là kiến thức tổng hợp.
Từ những trải nghiệm ban đầu đó, tôi đã thiết lập chương trình “học cùng cộng đồng”. 5-6 năm nay đưa sinh viên, học viên cao học ra học tập từ chính người dân địa phương. Thực tiễn dạy rất hay, người dân chính là những người thầy chân thật nhất. Còn tôi làm nghiên cứu khoa học, tôi dạy bằng kiến thức tổng hợp thì trừu tượng, khó tiếp thu. Nhưng khi kiến thức từ thực tiễn được tổng hợp thành mô hình, được vẽ ra thì sinh viên thấy kiến thức ấy đúng, mà sinh động hơn. Khi các em hiểu từ thực tiễn, các em quay lại với kiến thức thì nắm rất chắc.
Phóng viên: Trong những chuyến đi thực tế đến Bích Đầm (Nha Trang) hay các buôn làng Tây Nguyên để gây dựng du lịch học tập cộng đồng, điều gì ở sự tương tác giữa sinh viên, du khách và bà con đã thực sự làm ông thấy rung động và củng cố niềm tin vào con đường mà mình đang theo đuổi?
Tiến sĩ Chu Mạnh Trinh (mỉm cười nhớ lại): Rất nhiều kỷ niệm. Tôi nhớ khi bà con đưa các em sinh viên đi thắp nhang viếng liệt sĩ, rồi dừng lại bên gốc cây mủ trôm cổ thụ trăm năm để kể về giá trị của nó. Hay lúc các em thực hành làm mành ốc, khi cô sinh viên Trường đại học Nha Trang nếm thử giọt nước mắm nguyên chất Bích Đầm và “ồ” lên vì quá ngon… Những khoảnh khắc đó, tôi thấy rõ rằng tri thức không chỉ nằm trong sách vở, mà nó sống động, chân thật trong từng câu chuyện, từng sản phẩm của bà con. Chính sự chia sẻ tự nhiên, giản dị nhưng đầy tự hào của người dân, và sự tiếp nhận say mê, chân thành của các em sinh viên đã chạm đến tôi. Đó là những điều không sách vở nào có thể dạy được, và nó củng cố niềm tin của tôi rằng đây chính là con đường đúng đắn.
Phóng viên: Nhìn lại hành trình dài của mình, đặc biệt là khi chứng kiến những khoảnh khắc đời thường nhưng sâu sắc như tiếng kèn gọi vợ lên rẫy, hay lời tâm sự của bác cựu chiến binh về thời chiến đấu, điều gì đã làm lay động trái tim người làm bảo tồn như ông?
Tiến sĩ Chu Mạnh Trinh: (Trầm ngâm) Có lẽ điều làm tôi lay động nhất chính là khi thấy văn hóa không chỉ được “bảo tồn” mà còn “sống” và “lan tỏa” một cách tự nhiên. Từ tiếng kèn của người đàn ông Đăk Phơi (tỉnh Đăk Lăk) gọi vợ lên rẫy, mang theo sự quan tâm, thân thuộc của cuộc sống hằng ngày, đến câu chuyện hào hùng của bác cựu chiến binh về quá khứ lịch sử của vùng đất mình… Đó là những bài học về tình yêu thương, về lòng kiên cường, về sự gắn bó với đất đai, với rừng mà du khách không thể tìm thấy ở đâu khác.
Những khoảnh khắc ấy cho tôi thấy niềm hạnh phúc chân thật của người dân khi được chia sẻ những gì thuộc về mình, và sự rung động của du khách khi được chạm vào những giá trị thật. Nó không chỉ là du lịch, đó là sự kết nối sâu sắc giữa con người với con người, giữa con người với thiên nhiên, và giữa hiện tại với quá khứ. Những giá trị này, tôi tin, chính là nền tảng vững chắc nhất cho sự phát triển bền vững của cộng đồng. Đó không chỉ là du lịch - đó là sự hồi sinh của những điều thuộc về cộng đồng.
: Tiến sĩ Chu Mạnh Trinh giải thích với trẻ nhỏ về quá trình sinh trưởng của cây