edf40wrjww2tblPage:Content
Mười năm trận mạc mù mịt, người chết nhiều hơn người sống, thằng lính có bao giờ lẩm rẩm nghĩ mình sau này khi còn sống trở về sẽ làm gì đâu, chỉ cần sống cái đã, sống rồi về làm thằng ăn mày, nhặt rác, cửu vạn cũng được. Nhưng, mọi sự đâu có đơn giản như thế. Lại phải ước mơ, phải hướng nghiệp, phải xác định đủ thứ rối nhằng. Mà, giờ về đi học đại học lại muộn mất rồi, lên sân khấu làm tiếp nghề diễn viên cũng không ổn, ai coi. Đi xuống Vũng Tàu thử tuyển sinh vào ngành tình báo dầu khí cái xem sao, ông tuyển sinh quất thẳng vào mặt: “Mời đồng chí về. Tình báo là một khuôn mặt nhìn mười lần còn quên, trong khi mặt đồng chí chưa nhìn đã nhớ, xin lỗi!”. Hẫng hụt cả người. Thôi chỉ còn cách là theo nghề binh đến suốt đời vậy, dẫu đó thực chất đâu phải là một nghề.
Đúng lúc đó thì ông vào tìm tôi. Hai cha con chưa bao giờ ngủ chung giường với nhau nhưng đêm đó ông nằm cạnh tôi trong gian phòng nhỏ của chiêu đãi sở. Lần đầu từ lúc sinh ra, thay vì lạnh lùng, cáu gắt, mắng mỏ, ông đã rủ rỉ nói với tôi đủ điều về cuộc sống, về chiến tranh hòa bình, về con người và các góc khuất của cuộc sống… Sáng hôm sau, trước khi bay ra Hà Nội, ông chỉ dặn, nếu rỗi thì viết thử đi, viết gì cũng được rồi gửi ra cho ông đọc. Viết được thì tốt mà không viết được cũng không sao, ít nhất nó cũng làm cho đầu óc mình yên tĩnh.
Nghe ông, tôi viết. Viết như bổ củi, viết như nã đạn liên thanh xuống trang giấy, viết trong lúc bạn bè, đồng đội lao ra phố vùi đầu hưởng thụ những ngày hòa bình đầu tiên, ngợp bao nhiêu cái hấp dẫn, kỳ lạ, mới mẻ. Ngày bận thì thôi, đêm về lại nốc cà phê thức viết đến sáng. Chỉ một tuần sau tôi gửi ra cho ông ba cái truyện. Một tuần sau nữa, ông điện vào: Được, còn ngô ngọng lắm nhưng có chất, mà chất mới quan trọng, tạm được. Mà viết chậm thôi, nghĩ kỹ rồi hãy hạ bút, viết văn khác công đồn cậu lính đặc công ạ!
Hai tuần sau thì các truyện của tôi được đăng tải lần lượt trên báo Văn Nghệ trung ương, có truyện đăng hai kỳ. Chao ôi, ngồi giữa đường phố Sài Gòn ồn ào xe cộ, bên ly nước mía, chỉ đủ tiền uống thứ nước này thôi, nhâm nhi những câu chữ của mình mà thấy say, say như say trận tiền dạo nào. Lúc ấy tôi đâu ngờ, chỉ vì một lời khuyên của ông mà cuộc đời tôi rẽ hẳn sang một hướng khác, một trận đánh khác, trận đánh với những con chữ bướng bỉnh và quái ác cho đến cuối đời.
Trận đánh ấy có lúc tôi đã nản lòng thối chí, có lúc đã muốn buông xuôi chuyển sang công việc khác vì nó khó quá, khổ quá và cũng… nghèo quá. Càng viết càng nghèo. Như cái anh đi buôn, càng làm càng lỗ. Nhưng, mỗi lần về thăm ông, tôi vẫn thấy ông lặng lẽ ghì người vào bàn, vẫn nhẫn nại làm cái công việc khổ sai ấy mà không một lời phiền muộn. Ông viết đủ thứ, lúc thì kịch, lúc thì văn, lúc lại điện ảnh, có lúc ông khai triển cả ba thứ một lúc. Khai triển rất chậm, rất chắc, chỉ viết tay, không máy chữ và sau này cũng không laptop. Ông nói, về đêm, nghe con chữ nó xôn xao sống dậy trước ngòi bút lạo xạo của mình thích lắm. Tôi lại khác, đời có phương tiện gì là tôi chơi ngay phương tiện ấy và đã không viết thì thôi, đã ngồi vào bàn là viết rất nhanh, viết như lên cơn, tốc độ nhanh gấp hàng chục lần ông. Ông không lấy đó làm điều, chỉ khẽ lắc đầu: “Nhanh chậm không quan trọng, miễn là phải biết tôn trọng độc giả và tôn trọng mình”.
Mãi sau này tôi mới biết ông đúng khi ngòi bút của mình đã có chiều cạn cợt. Lúc cạn cợt ấy, nếu không vì độc giả, vì sự tin cậy của tuổi trẻ thì không hiểu tôi sẽ tung ra những con chữ lổn nhổn quái dị như thế nào. Hơn thế, chính cái cách tôn trọng bạn đọc và tự tôn trọng mình trong cái nghiệp cô đơn này sẽ tạo nên sức bền con chữ, sức bền sáng tạo mà ông, nhà văn, nhà viết kịch Học Phi là một minh chứng, khi ở vào cái tuổi 100, trước khi ngã bệnh vào bệnh viện, trên bàn ông vẫn còn những trang văn đang viết dở.
Chỉ có điều tôi sẽ không tủi hổ khi đứng bên linh cữu ông, khi tôi đã rất giống ông ở một nét như là vô tình, đó là nếu toàn bộ hệ thống nhân vật của ông là những người cách mạng, những người cộng sản có da có thịt, có niềm vui nỗi buồn, có yếu đuối có can tràng, có hy vọng và tuyệt vọng rất gần với số phận nhân quần thì ở tôi, các nhân vật chính cũng toàn là lính và những người lính ấy đã đi vào đời thường, đi được vào lòng người đọc.
Ngày mai ông sẽ đi vào cõi vĩnh hằng như một người đã làm hết chức phận của mình, chức phận của một cá thể sáng tạo âm thầm, quả cảm và nhẫn nại. Tôi ở lại, phận làm con xin hứa, nếu như những gì ông còn trăn trở, còn chưa làm xong, tôi sẽ ráng làm tiếp.
Bởi tôi hiểu, sức bền con chữ chính là sức bền nhân cách, như cuộc đời ông.
CHU LAI